Khải tượng

Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2021

THIÊN LỘ LỊCH TRÌNH - CHƯƠNG 7: LÊ THIỆN TÂM

 CHƯƠNG 7: LÊ THIỆN TÂM

Cuối cùng thì Cơ Đốc Nhân đã đến Cửa hẹp. Lần đầu tiên anh nghe đến Cửa này khi Vị Truyền đạo khuấy động sự quan tâm của anh bằng câu hỏi, "Anh có thấy Cửa hẹp đằng kia không?" Đã hai lần Truyền đạo nhận thấy Cơ Đốc Nhân đang gặp nguy hiểm và đưa anh trở lại Con đường, một là trong lần gặp gỡ đầu tiên của họ và lần thứ hai tại Đồi cao. Sau khi cảm thấy sức nặng đáng sợ của gánh nặng ở giữa Vũng Lầy và dưới những vách đá của Núi Sinai, Cơ Đốc Nhân đã sẵn sàng hơn bao giờ hết để thoát khỏi Gánh nặng của mình. Anh nhớ lại lời của Vị Truyền đạo: tại Cửa hẹp, anh sẽ được chỉ cho biết những gì anh cần phải làm.

Khi Cơ Đốc Nhân đến Cửa hẹp, anh đọc được lời hứa tuyệt đẹp trong Ma-thi-ơ 7: 7 "Hãy gõ cửa và cửa sẽ mở cho anh em." Các mệnh lệnh trong câu này — hãy xin, hãy tìm kiếm và hãy gõ cửa — đều là thì hiện tại trong tiếng Hy Lạp, chỉ về một hành động liên tục. Chúng ta được khích lệ hãy liên tục cầu xin, liên tục tìm kiếm và liên tục gõ cửa. Cơ Đốc Nhân kiên trì mong muốn được vào bằng cách gõ cửa "nhiều hơn một hoặc hai lần." Công việc cứu rỗi tối cao của Đức Chúa Trời nhất thiết phải sử dụng trách nhiệm của con người. Tội nhân phải đến với Đấng Christ trong đức tin và sự ăn năn.

Bunyan đã mở rộng hình ảnh của cánh cổng trong một tác phẩm khác của ông có tên là Cửa Hẹp: hay, Khó khăn lớn khi đi đến thiên đường. Ông giải thích rằng cánh cửa được Chúa Giê-su Christ nói đến trong Lu-ca 13:24 ám chỉ lối vào vương quốc Thiên đàng:

Nó được đặt ra bởi sự giống nhau của một cánh cửa. Một cánh cổng, bạn biết đấy, có công dụng kép. Nó vừa để mở và để đóng, và do đó, để vào hoặc giữ lại; và để làm cả hai tùy theo mùa; như Nê-hê-mi đã nói: " Chớ mở các cửa Giê-ru-sa-lem trước khi mặt trời nắng nóng; " và một lần nữa, " Ấy vậy, khi các cửa Giê-ru-sa-lem khởi khuất trong bóng tối trước ngày sa-bát, tôi bèn truyền người ta đóng cửa lại và dặn biểu chúng nó chỉ mở nó ra sau ngày sa-bát; " (Nê-hê-mi 7: 3; 13: 19-20). Và vì vậy, chúng ta thấy cửa thiên đàng này, khi năm người nữ khôn ngoan đến, cửa đã được mở ra; nhưng sau đó khi năm người nữ còn lại đến, thì cửa đóng lại (Mat 25). Vì vậy, lối vào thiên đàng được gọi là một cánh cửa, để cho thấy có một thời điểm có thể có lối vào, và sẽ có một thời điểm mà không có ai vào được; và đây là một sự thật chính yếu có trong Kinh Thánh — Hãy gắng sức vào cửa hẹp, vì ta nói cùng các ngươi, nhiều người sẽ tìm cách vào mà không vào được.

Sau đó Bunyan xác định được Cửa Hẹp tượng trưng cho Đấng nào. Cửa Hẹp này không phải ai khác ngoài chính Chúa Jêsus Christ, như Bunyan giải thích:

Có một cánh cửa đức tin, cánh cửa mà ân điển của Đức Chúa Trời đã mở ra cho các dân ngoại. Cánh cửa này là Chúa Giê-xu Christ, cũng như chính Ngài đã làm chứng rằng: Ta là cái cửa (Giăng 10: 9; Công vụ 14:27). Qua cánh cửa này, con người đi vào sự nhân từ và lòng thương xót của Đức Chúa Trời, tìm thấy sự tha thứ nhờ đức tin trong huyết Ngài, và sống trong hy vọng có sự sống đời đời; và do đó chính Ngài đã nói rằng: Ta là cái cửa: nếu ai bởi ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi; họ sẽ vào ra và gặp đồng cỏ.

Thomas Scott nói về Cửa Hẹp này:

Cánh cổng, nơi mà Cơ đốc nhân mong muốn được nhận vào, tượng trưng cho chính Chúa Giê-su Christ, như được nhận bởi tội nhân ăn năn, trong tất cả các căn phòng của Ngài, và cho tất cả các mục đích cứu rỗi, tùy theo sự hiểu biết rõ ràng của người đó; nhờ đó anh ta thực sự được Đức Chúa Trời chấp nhận. Lời Kinh thánh được nhắc đến là do chính Chúa nói ra, trước sự mặc khải đầy đủ về đặc tính và sự cứu chuộc của Ngài; và có thể được giải thích đúng đắn về việc một người đã quyết định từ bỏ những mưu cầu trần tục và tội lỗi, đồng thời từ bỏ bản thân và dâng đời sống mình cho Đức Chúa Trời.

Tại Cửa Hẹp cuối cùng anh cũng được gặp một người gác cổng đầy tình yêu thương là Lê Thiện Tâm, một người luôn chăm sóc cho linh hồn của anh, nhưng khá nghiêm túc trong việc đặt câu hỏi về danh tính và ý định của anh ta. Chúng ta cùng tìm hiểu danh tính của người gác cổng này trong câu chuyện ngụ ngôn của Bunyan.

Thiện Tâm có vẻ mặt nghiêm nghị vì tính chất quan trọng của nhiệm vụ anh ta, trả lời cho những người đang gánh nặng tội lỗi khi họ gõ cửa và giải cứu họ khỏi nguy hiểm. Tuy nhiên, ông yêu thương vì ông thể hiện sự sẵn lòng của Đức Chúa Trời để tiếp nhận những người tội lỗi đến với Ngài trong sự ăn năn và đức tin. Ở nơi Thiện Tâm, chúng ta thấy lòng nhân từ và thương xót mà Đức Chúa Trời dành cho dân sự của Ngài ngay cả khi họ vẫn còn trong tội lỗi của mình. Tên của ông gợi lên bài ca của các thiên sứ loan báo sự ra đời của Chúa Giê-su trong Lu-ca 2:14, rằng: " Sáng danh Chúa trên các từng trời rất cao, Bình an dưới đất, ân ban (thiện tâm) cho loài người!"

Khi Chúa Jêsus giáng sinh, lòng thương xót và sự cứu rỗi của Ngài đã bao phủ lịch sử nhân loại, đem lại điều tốt lành cho cả Đức Chúa Trời và loài người. Đức Chúa Jêsus đã dâng vinh quang cho Cha khi Ngài cầu nguyện cận kề cái chết: " Thưa Cha, giờ đã đến; xin làm vinh hiển Con, hầu cho Con cũng làm vinh hiển Cha, " (Giăng 17: 1). Đối với loài người, Đấng Cứu Rỗi đã mang lại hòa bình và thiện chí. Nhưng hòa bình này không phải là hòa bình xã hội hay chính trị. Chính Chúa Giê-su đã nói: " Chớ tưởng rằng ta đến để đem sự bình an cho thế gian; ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo." (Ma-thi-ơ 10:34). Sự bình an mà Chúa Giê-su mang lại là sự bình an thuộc linh — sự hoà giải giữa Đức Chúa Trời và dân Ngài được thực hiện bởi Đấng Trung Bảo nhân từ và Thầy Tế Lễ Vĩ Đại của chúng ta. Thiện tâm của Đức Chúa Trời đối với loài người rất đặc biệt, chỉ dành cho những ai tha thiết tìm kiếm ở Cửa Hẹp (như chúng ta đã thấy trong bài trước tượng trưng cho Đấng Christ).

Có vẻ điều này khá kỳ quặc đối với nhiều nhà truyền giáo thời nay, với cách tiếp cận thực tế, hướng đến người có lòng quan tâm để truyền bá phúc âm, trong câu chuyện ngụ ngôn của Bunyan, một Cánh cổng đóng kín mà lời mời duy nhất được viết là: "hãy gõ cửa sẽ mở cho" (Ma-thi-ơ 7: 7). Có vẻ như nếu cánh cổng rộng mở với một số trò giải trí bên trong có lẽ sẽ hấp dẫn hơn! Và tại sao Người gác cổng lại không ở bên ngoài khuấy động đám đông, giúp mọi người cảm thấy dễ chịu, rồi đưa họ vào? Nhưng đây không phải là lời đề nghị cứu rỗi mà chúng ta thấy trong Kinh thánh. Đức Chúa Trời sẽ cứu chúng ta thoát khỏi sự hủy diệt, từ bỏ tội lỗi, chạy đến với Đấng Christ và nhận được sự sống.

“Hãy nói cùng chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ta chẳng lấy sự kẻ dữ chết làm vui, nhưng vui về nó xây bỏ đường lối mình và được sống. Các ngươi khá xây bỏ, xây bỏ đường lối xấu của mình. Sao các ngươi muốn chết, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên?" (Ê-xê-chi-ên 33:11).

Sự cứu rỗi được ban cho trong Kinh Thánh dành cho những người nhận thấy gánh nặng của tội lỗi và trốn chạy sự lên án của tội lỗi. Đó là sự cứu rỗi mà khi con người biết hạ mình và đặt tội nhân vào lòng thương xót của Đức Chúa Trời. Đó là một sự cứu rỗi mang đến "sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời ở trên cao nhất" và ban xuống cho con người trong sự thương xót để mang lại bình an và thiện tâm cho con người. Đó là một sự cứu rỗi chắc chắn và đáng được nhận lấy.

Chúa Giê-xu dạy: “Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta, kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu.” (Giăng 6:37). Hãy xem sự dịu dàng và chăm sóc mà Chúa Giê-su mời gọi tội nhân đến với chính Ngài: " Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng "(Ma-thi-ơ 11: 28-30). Đây thực sự là Thiện Tâm đối với con người!

Ngay khi Thiện Tâm mở Cổng chào đón Cơ Đốc Nhân, ông nhanh nhẹn “kéo Cơ Đốc Nhân vào bên trong ngay”. Thiện Tâm hiểu rằng những người đi tìm kiếm ở Cửa Hẹp đang gặp nguy hiểm nghiêm trọng. Họ thoát khỏi bóng tối của Sự hủy diệt nhưng có thể họ sẽ vẫn ở trong bóng của một lâu đài đen tối khác.

Theo Kinh thánh, trong tình trạng tự nhiên của chúng ta, chúng ta đã chết vì những vi phạm và tội lỗi mình (Ê-phê-sô 2: 1). Chúng ta không tìm kiếm Đức Chúa Trời (Rô-ma 3:11). Tin Lành có vẻ là điên dại (1 Cô-rinh-tô 1:18). Ngoài ân điển của Đức Chúa Trời, chúng ta thậm chí không hiểu rằng chúng ta đang gặp nguy hiểm và cần một Đấng Cứu Rỗi (1 Cô-rinh-tô 2:14). Bởi chính chúng ta đang nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời, dưới cơn thịnh nộ và sự lên án của Ngài; chưa sẵn sàng thay đổi và hoàn toàn bất lực khi làm như vậy. Nếu không phải vì tình yêu của Đức Chúa Trời kéo chúng ta đến thì tất cả chúng ta sẽ vẫn bị giam cầm trong tội lỗi của mình và bị ràng buộc cho Sự Hủy Diệt.

Nhưng nếu tội lỗi, ham muốn và sự thiếu hiểu biết của chúng ta không đủ để đè nặng chúng ta, thì Sa-tan và quyền thống trị của Ngài cũng đã tuyên chiến với Đấng Tạo Hóa Tối Thượng. Chúng ghét Đức Chúa Trời và có ý định cản trở kế hoạch của Ngài để cứu một dân tộc cho chính Ngài. Như Phao-lô nói với chúng ta:

“Vì chúng ta đánh trận, chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy.” (Ê-phê-sô 6:12).

Tại Cửa hẹp, Cơ đốc nhân học được rằng tìm kiếm theo Chúa có nghĩa là thu hút sự chú ý từ kẻ thù của Đấng Christ. Thiện Tâm cảnh báo anh về những mũi tên sẽ bắn vào những người chú ý đến tiếng gọi của Tin Lành. Satan không muốn gì hơn là giết họ (hoặc ít nhất là làm bị thương), những người mà Đức Thánh Linh đang hành động trong họ. Hắn và những quỷ sứ nó theo dõi và nhắm mục tiêu vào những người được kéo đến với Đấng Christ và đến gõ cổng.

Mặc dù Cơ Đốc Nhân đã nếm trải sự tốt lành của Đức Chúa Trời bên trong Cửa Hẹp, anh nhận thấy rằng cuộc hành trình này chỉ mới bắt đầu, và anh phải tiếp tục một thời gian nữa với gánh nặng của mình. Tuy nhiên, trước khi Cơ Đốc Nhân đi tiếp, anh phải được hướng dẫn thêm về Con đường. Cơ Đốc Nhân đã hoàn thành cuộc hành trình cho đến nay để đến Cửa Hẹp, như Vị truyền đạo đã hướng dẫn, và đã tìm thấy một Cánh cửa rộng mở, nhưng nhiều nguy hiểm vẫn còn ở phía trước. Lê Thiện Tâm cho Cơ đốc nhân những lời khuyên khôn ngoan có thể bảo vệ anh ta khỏi những nguy hiểm này. Lê Thiện Tâm dạy năm điều về Con đường:

1. Là một Con đường hẹp.

Chúa Giê-su dạy:

“Hãy vào cửa hẹp, vì cửa rộng và đường khoảng khoát dẫn đến sự hư mất, kẻ vào đó cũng nhiều. Song cửa hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, kẻ kiếm được thì ít.” (Ma-thi-ơ 7: 13-14).

Đó là một con đường hẹp và khó khăn, mà con người tự nhiên thấy khó chịu và không thoải mái. Ít người tìm thấy con đường này; sẽ không ai tìm thấy nó nếu không bởi ân điển và quyền năng của Đức Chúa Trời. Thomas Scott nói về Con đường như sau:

Trong con đường rộng lớn, mỗi người có thể chọn một con đường phù hợp với khuynh hướng của mình, thay đổi để tránh khó khăn, hoặc thích ứng với hoàn cảnh; và anh ấy sẽ chắc chắn về một con đường phù hợp với sở thích của anh ta. Nhưng các tín đồ Đấng Christ phải đi cùng nhau trên đường hẹp, cùng một đường đua, vượt qua khó khăn, đối mặt với kẻ thù và gánh chịu gian khổ, cũng không có bất kỳ sự buông thả nào đối với những sở thích, thói quen hoặc khuynh hướng khác nhau.

 Con đường mà tất cả các Cơ đốc nhân phải theo là Con đường giúp chúng ta noi theo hình ảnh của Đấng Cứu Rỗi. Chúng ta phải theo dấu từng bước chân của Ngài. Đường không đủ rộng để một số người thì đi bên phải, những người khác thì đi bên trái, và những người khác nữa thì lạng qua lạng lại giữa các làn đường cho thuận tiện. Đây là một cách thức từ bỏ bản thân và hy sinh, không phải tự thỏa mãn và dễ dãi.

2. Nó được xây đắp bởi các tổ phụ, các nhà tiên tri, Đấng Christ và các sứ đồ của Ngài.

Đó là Con đường được tìm thấy trong Lời Thánh của Đức Chúa Trời. Phao-lô dạy chúng ta rằng chúng ta là " Dường ấy anh em chẳng phải là người ngoại, cũng chẳng phải là kẻ ở trọ nữa, nhưng là người đồng quốc với các thánh đồ, và là người nhà của Đức Chúa Trời. Anh em đã được dựng lên trên nền của các sứ đồ cùng các đấng tiên tri, chính Đức Chúa Jêsus Christ là đá góc nhà, " (Ê-phê-sô 2: 19-20). " Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành. " (2 Ti-mô-thê 3: 16- 17). Phi-e-rơ giải thích cho độc giả của mình:

“Hỡi kẻ rất yêu dấu, nầy là thơ thứ hai tôi viết cho anh em. trong thơ nầy và thơ kia, tôi tìm cách làm cho nhớ lại để giục lòng lành trong anh em, 2 hầu cho ghi lấy lời nói trước của các thánh tiên tri, cùng mạng lịnh của Chúa và Cứu Chúa chúng ta, đã cậy các sứ đồ của anh em mà truyền lại.” (2 Phi-e-rơ 3: 1-2).

Lời Đức Chúa Trời chứa đựng những lời hứa và chỉ dẫn để giúp chúng ta luôn tỉnh táo và chuẩn bị trước nguy cơ thuộc linh.

3. Con đường thẳng tắp.

Thi thiên 125: 5 dạy rằng đường lối của loài người là quanh co. Tuy nhiên, Con đường của Đức Chúa Trời là ngay thẳng, không bao giờ đi lạc hoặc rẽ khỏi hướng đi của nó. Với Đức Chúa Trời, "không có sự thay đổi hay bóng của sự biến đổi nào" (Gia-cơ 1:17).

4. Đó là Con đường chánh đáng mà Cơ đốc nhân phải đi.

Con đường này là con đường duy nhất. Chúa Giê-xu phán: "Ta là đường đi, lẽ thật và sự sống, chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha" (Giăng 14: 6). Không có con đường nào khác dẫn đến Thiên Thành và có sự hiện diện của nhà vua.

5. Có rất nhiều con đường sai lạc xuyên qua đường chánh.

Trong khi Con đường chánh tự nó không đi lạc hoặc rẽ sang một bên, nhưng nhiều con đường sai lệch giao nhau và rẽ nhánh từ Con đường chánh, là mối đe dọa khiến Người lữ khách xa bỏ lẽ thật. Cơ Đốc Nhân phải cẩn thận để đi trên con đường thẳng và hẹp. Sau này trong câu chuyện ngụ ngôn, chúng ta sẽ thấy chỉ dẫn của Thiện Tâm sẽ được chứng minh là đúng và giúp bảo toàn mạng sống của Cơ Đốc Nhân.

 SUY GẪM

Cơ Đốc Nhân xấu hổ vì đã lìa khỏi con đường chánh đáng và không nghĩ rằng tội lỗi của mình sẽ được tha thứ. Bạn có đôi khi cảm thấy như vậy không? Đức Chúa Trời ban lời hứa nào trong 1 Giăng 1: 9 để khích lệ chúng ta?

Liệt kê hai lý do tại sao bạn nghĩ Cơ Đốc Nhân bây giờ bước đi với vẻ vội vàng và tránh không nói một lời nào với bất cứ ai?

Vẽ thêm chi tiết vào hình dưới những gì Cơ Đốc Nhân đã nhìn thấy khi anh ta đến Cửa Hẹp?

Đọc 2 Phi-e-rơ 3: 9 và Giăng 6:37. Điều này cho bạn biết gì về Lê Thiện Tâm?

Tại sao Lê Thiện Tâm lại kéo Cơ Đốc Nhân vào bên trong ngay?

Trên các mũi tên, hãy viết các cách mà Bê-ên-xê-bun và thuộc hạ của hắn (chuồng Ác quỷ) ngăn cản chúng ta vào qua Cửa Hẹp.


Bạn nghĩ tại sao con đường đến Thiên đàng là cong hẹp và gồ ghề?

Đọc Giăng 10: 7–9. Hãy viết tên thật của Lê Thiện Tâm.

 ĐÀO SÂU

Các mũi tên mà Bê-ên-xê-bun bắn đi là gì?

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

Trong thời đại ngày nay người ta bảo rằng “mọi con đường đều dẫn đến Thiên đường”, bạn có ngạc nhiên không khi họ nói thế? Bạn đồng ý hay không đồng ý với câu này? Giải thích qua câu trả lời của bạn

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

Đọc Ma-thi-ơ 7: 13–14 và Giăng 10: 1–10. Bạn đồng ý hay không đồng ý với cách giải thích rằng cánh cổng tượng trưng cho lối vào cuộc sống đời đời? Giải thích nỗi sợ hãi của bạn......

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

Đọc Giăng 6: 35–40. Phân đoạn này nói gì về người có thể nhận được sự sống đời đời?

...................................................................................................................................

Đọc Hê-bơ-rơ 11. Đâu là điểm chung giữa “các tổ phụ, các nhà tiên tri” và những người khác đã đi qua con đường hẹp trước chúng ta? ...................................................................

...................................................................................................................................

 

Thứ Sáu, 19 tháng 2, 2021

THIÊN LỘ LỊCH TRÌNH-CHƯƠNG 6: NÚI SINAI VÀ VỊ TRUYỀN ĐẠO

 CHƯƠNG 6: NÚI SINAI VÀ VỊ TRUYỀN ĐẠO

Ông Trần Thế Khôn là một người rất được tôn trọng trong giới của mình, và với lòng đầy chân thành, ông đã tự nhận mình có nhiệm vụ giúp đỡ người lữ hành mang gánh nặng rắc rối trên vai. Sự đảm bảo của ông ta là được chữa lành tâm trí phiền muộn, an toàn, tình bằng hữu và thỏa lòng. Giải pháp của ông là làng Đạo đức — cụ thể là nhà của một người tên là Nguyễn Trọng Luật với con trai của mình là Nguyễn Trọng Lễ, nơi đó người lữ hành sẽ tìm thấy câu trả lời cho mình cùng với hạnh phúc tràn đầy và gánh nặng sẽ được cất bỏ ngay.

Thật ra, đạo làm lành (đạo lương) là con đường vẫn được vô số người ưa thích, cố gắng đến được Thiên đàng và Bunyan muốn chuyển tải bài học này bằng các chi tiết trong phong cảnh. Ngôi làng đạo đức tự hào về những người hàng xóm rất tử tế và đối xử với láng giềng của họ một cách lịch sự và tôn trọng. Mọi người nói tốt về nhau và biết cách xử lý gánh nặng của người lữ hành. Có rất nhiều chỗ trong làng cho thuê với mức giá phải chăng. (Không nghi ngờ gì nữa, Bunyan đang ám chỉ đến Nhà thờ Anh trong thời của ông ấy, nơi mà phần lớn các băng ghế trống và mà kỳ vọng hầu hết là rất ít.)

Cơ Đốc Nhân nghe theo lời khuyên của Trần Thế Khôn, nhưng khi anh ta đến một đồi cao thì anh sợ nó đổ và đè bẹp anh. Đột nhiên gánh nặng anh ấy mang theo trở thành nặng hơn. Người lữ khách với gánh nặng và tấm lòng chân thành biết rằng Luật thánh như luật Môi-se từ trên núi sấm sét và đầy khói không thể giúp anh ta bằng bất kỳ cách nào. Nó có thể đe dọa và cảnh báo, nhưng nó không bao giờ có thể lấy đi gánh nặng tội lỗi gắn chặt vào lưng anh. Điều thú vị trong câu chuyện ngụ ngôn rằng những người sống thoải mái trong ngôi làng của Đạo đức dường như không sợ nguy hiểm từ ngọn núi. Thay vào đó, họ lặng lẽ đi về cuộc sống của họ đắm chìm trong sự tôn trọng và lễ nghi của họ.

Đây là cách mà một người đạo đức khác đã từng sống, ông ta nói, " Ấy chẳng phải tôi không có thể cậy mình trong xác thịt đâu. Ví bằng kẻ khác tưởng rằng có thể cậy mình trong xác thịt, thì tôi lại có thể bội phần nữa, 5 tôi chịu phép cắt bì ngày thứ tám, về dòng Y-sơ-ra-ên, chi phái Bên-gia-min, người Hê-bơ-rơ, con của người Hê-bơ-rơ; về luật pháp, thì thuộc phe Pha-ri-si; 6 về lòng sốt sắng, thì là kẻ bắt bớ hội thánh; còn như về sự công bình của luật pháp, thì không chỗ trách được.” (Phi-líp 3: 5–6). Nếu có người nào từng sống trong làng đạo đức, thì đó chính là Sứ đồ Phao-lô. Ông không chỉ sống trong làng, ông phải sống đúng bên cạnh ngọn núi, đối với ông là Yên tĩnh và bình yên. Rồi một ngày mặt đất bắt đầu rung chuyển, và những vụ phun trào bắt đầu xảy ra đe dọa chôn vùi ông.

Đối với Lữ khách, Bunyan, Phao lô hay bất cứ ai khác có cơ hội đã cố gắng tìm hòa bình dưới chân núi Sinai, không lâu nữa điều răn đến và mang theo nó mối đe dọa và giận dữ, thay vì hòa bình và cứu giúp khỏi gánh nặng và sức nặng của tội lỗi. Như Phao-lô nói, “Ngày xưa tôi không có luật pháp mà tôi sống; nhưng khi điều răn đến, thì tội lỗi lại sống” (Rô-ma 7: 9) 

GIẢI NGHĨA CỦA KEN PULS

Phần này trong câu chuyện ngụ ngôn của Bunyan có một khởi đầu đen tối. Cơ Đốc Nhân giờ đã lạc khỏi Con đường, bị lung lay bởi lời khuyên của Trần Thế Khôn. Khi anh đi đến Làng Đạo đức, chẳng bao lâu thì anh bắt đầu nhận ra sự ngu ngốc của mình. Càng đến gần Đồi Cao, anh ta càng lo sợ nó sẽ rơi xuống đầu và nghiền nát anh. Anh đã từ bỏ Con đường thập tự giá và hiện đang theo đuổi một sự cứu rỗi công bình. Anh sớm biết rằng những nỗ lực để làm vui lòng Chúa bằng một hình thức đạo đức bề ngoài chẳng khác gì những mảnh vải vụn bẩn thỉu trước mặt Chúa. Các việc lành của anh không bao giờ có thể đạt đến tiêu chuẩn hoàn hảo của Luật pháp Đức Chúa Trời. Cơ Đốc Nhân thấy mình vô cùng sợ hãi, không biết phải làm gì hay phải rẽ theo hướng nào. Tuy nhiên, Chúa nhân từ và sai Vị Truyền đạo đầy tớ của Ngài một lần nữa để cảnh báo và an ủi Cơ đốc nhân. Truyền đạo trung tín với Vua của mình đã đến tìm và cảnh báo người anh em mình. Đoạn văn khép lại trong Ánh sáng của Tin Lành khi Cơ đốc nhân cho thấy thành quả của sự ăn năn và Truyền Đạo khích lệ anh không nên thiếu đức tin, nhưng hãy tin cậy.

Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn ba người có liên quan đến chương này trong Hành Trình Lữ Khách: lòng thương xót của Nhà vua, lòng trung tín của Truyền đạo và phản ứng của Cơ đốc nhân.

I. Lòng nhân từ của nhà vua

Trước hết, hãy lưu ý, việc Vua nhân từ sai người tôi tớ của Ngài là Truyền Đạo đến để cảnh cáo Cơ Đốc Nhân về lỗi của mình. Truyền Đạo trong câu chuyện ngụ ngôn là đại diện về một mục sư, một người chăn cừu, một người canh gác — một người phục vụ Vương quốc của Đức Chúa Trời bằng cách chăm sóc và hướng dẫn dân sự của Đức Chúa Trời. Chính Đức Chúa Trời đã hứa: “Và Ta sẽ ban cho các ngươi những người chăn theo lòng Ta, là kẻ sẽ nuôi các ngươi bằng sự hiểu biết và thông sáng” (Giê-rê-mi 3:15).

Đức Chúa Trời cũng đã hứa rằng Ngài sẽ không bỏ mặc những người Ngài yêu thương. Truyền Đạo sẽ đến và sửa sai. Chúng ta được học trong Châm ngôn 3: 11-12, " Hỡi con, chớ khinh điều sửa phạt của Đức Giê-hô-va, Chớ hiềm lòng khi Ngài quở trách; Vì Đức Giê-hô-va yêu thương ai thì trách phạt nấy. Như một người cha đối cùng con trai yêu dấu mình."

Lưu ý rằng tội lỗi này không làm Đức Chúa Trời ngạc nhiên. Ngài đã chuẩn bị cho những vấp ngã và lang thang của chúng ta. Chúa biết tấm lòng của con người. Ngài nói với chúng ta trong Giê-rê-mi 17: 9, Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được?" Ê-sai mô tả chúng ta giống như những con chiên đã quay đầu và đi lạc, mỗi người trong chúng ta đều đi theo con đường riêng của mình (Ê-sai 53: 6). Ngay cả khi con đường đã được sắp đặt rõ ràng trước mắt, chúng ta cũng rất dễ bị phân tâm và lẩn tránh. Như tác giả bài thánh ca đã nói, chúng ta "ưa xa Thánh phụ, thường hay cách ly Cha từ ái."

Điều quan trọng là xuyên suốt câu chuyện ngụ ngôn, trong tất cả những lần Cơ đốc nhân trượt chơn, vấp ngã hay lạc đường, Nhà vua luôn chuẩn bị sẵn sàng để tìm anh và đưa anh trở lại. Khi Cơ Đốc Nhân đang ở trên cánh đồng đọc Sách của mình, bị kết tội và không biết phải đi đường nào, Đức Chúa Trời đã gửi Truyền Đạo để cảnh báo anh hãy chạy trốn cơn thịnh nộ hầu đến và chạy trốn đến Cổng hẹp, đến với Chúa Jêsus Christ và Tin Mừng của Ngài. Khi Cơ Đốc Nhân rơi vào Vũng Lầy, sa lầy bởi tội lỗi của mình và tự hỏi liệu Chúa có thể cứu một người độc ác như anh hay không, Ân Trợ ở gần đó để đến và kéo anh ra. Và giờ đây, khi Cơ Đốc Nhân từ bỏ con đường đúng đắn và lạc lối, Truyền Đạo lại được cử đến để cảnh báo và hướng dẫn Cơ Đốc Nhân.

II. Sự trung tín của vị Truyền Đạo

Thứ hai, hãy xem xét lòng trung tín của Truyền Đạo để phục vụ Vua như một người chăn trung thành. Truyền Đạo không ngại đối mặt với Cơ Đốc Nhân về tội lỗi của mình và cảnh báo anh ấy về hậu quả của nó. Truyền Đạo nói với anh ta một cách rõ ràng, "bây giờ anh đã ra khỏi Con đường." Mặc dù công việc có thể khó khăn và tốn kém, nhưng Ê-xê-chi-ên 33: 1-6 cho thấy tầm quan trọng nghiêm trọng của việc đối mặt với tội lỗi của họ và công bố Phúc Âm:

“Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: 2 Hỡi con người, hãy nói cùng con cái dân ngươi mà rằng: Khi ta sai gươm đến trên một đất nào, và dân đất ấy chọn một người trong chúng nó để đặt làm kẻ canh giữ, 3 nếu người nầy thấy gươm đến trong đất, thì thổi kèn để rao bảo dân sự. 4 Bấy giờ, hễ ai nghe tiếng kèn mà không chịu răn bảo, và nếu gươm đến bắt lấy nó, thì máu của người ấy sẽ đổ lại trên đầu nó; 5 vì nó có nghe tiếng kèn mà không chịu răn bảo, vậy máu nó sẽ đổ lại trên nó; nhưng nếu nó chịu răn bảo thì cứu được mạng sống mình. 6 Nhưng nếu kẻ canh giữ thấy gươm đến mà không thổi kèn, đến nỗi dân sự chẳng được răn bảo, và gươm đến mà cất sự sống của người nầy hoặc người kia đi, thì người đó sẽ chết trong sự gian ác mình; song ta sẽ đòi lại máu nó nơi người canh giữ.”

Người canh giữ biết trọng trách của mình trước Chúa. Anh ta hiểu những thực tế của địa ngục, sự phán xét và cơn thịnh nộ sắp tới của Đức Chúa Trời. Điều này nung nấu trong lòng anh để cảnh báo và cầu xin mọi người hãy chạy trốn khỏi sự Hủy diệt và tìm kiếm Cổng hẹp.

Nhưng hãy để ý những gì người canh giữ nói. Anh ta không phải như Trần Thế Khôn, đưa ra ý kiến ​​và lời khuyên của riêng mình. Anh không lừa dối những người phạm tội bằng những biện pháp lừa dối và sự bảo đảm sai lầm. Thay vào đó, người canh gác phải trung thành rao giảng Lời Đức Chúa Trời. “Nầy, hỡi con người, ta đã lập ngươi đặng làm kẻ canh giữ cho nhà Y-sơ-ra-ên; nên hãy nghe lời từ miệng ta, và thay ta răn bảo trước cho chúng nó.” (Ê-xê-chi-ên 33: 7). Chúng ta xem trong 2 Ti-mô-thê 3:16 rằng Lời Đức Chúa Trời có ích cho sự dạy dỗ (dạy chúng ta sự thật về Đức Chúa Trời, về bản thân và về thế giới mà chúng ta đang sống, vì vậy chúng ta sẽ biết Con đường phải đi), bẻ trách (đối đầu chúng ta khi chúng ta phạm tội, lầm lỗi và đi lạc đường), để sửa trị (chỉ cách trở lại Con đường), và để được hướng dẫn trong sự công bình (dạy chúng ta cách ở lại trong Con đường). Ở đây Cơ đốc nhân đang cần tất cả những gì Kinh thánh có thể cung cấp và Truyền Đạo nói với anh ta, "Hãy đứng yên và lắng nghe để tôi chỉ cho anh những lời của Đức Chúa Trời."

Nhưng cũng lưu ý rằng, trong khi Truyền Đạo không coi thường tội lỗi của Cơ đốc nhân, ông nói sự thật với Cơ đốc nhân trong tình yêu thương. Lời cảnh báo nghiêm khắc của ông được hòa lẫn với một tấm lòng nhân ái, êm nhẹ và dịu dàng. Khi nghe tin tội lỗi của mình bị vạch trần, Cơ Đốc Nhân gục xuống dưới chân Truyền Đạo như chết. Khi kết quả của sự ăn năn được thể hiện, Truyền Đạo nhanh chóng mang lại sự bình an của Tin Mừng. Truyền Đạo nói với anh, "Mọi tội lỗi và những kẻ phạm thượng đều sẽ được tha thứ cho loài người; đừng vô tín, nhưng hãy tin." Truyền Đạo nắm lấy tay Cơ Đốc Nhân và giúp anh đứng vững.

III. Phản ứng của Cơ Đốc Nhân

Cuối cùng, hãy chú ý đến phản ứng của Cơ Đốc Nhân đối với lời cảnh báo mà anh đã nhận được. Anh khiêm tốn chấp nhận. Khi người canh gác thổi kèn, Cơ Đốc Nhân chú ý đến lời kêu gọi và ăn năn tội lỗi của mình. Giê-rê-mi 6, nói về sự sụp đổ của Giu-đa, trình bày một ví dụ về hậu quả nghiêm trọng của việc từ chối Lời Đức Chúa Trời và không để ý đến những người canh giữ của Ngài. Ở đây chúng ta được cho biết: " Ta đã lập vọng canh kề các ngươi; hãy chăm chỉ nghe tiếng kèn. Nhưng chúng nó đáp rằng: Chúng tôi không khứng nghe. 18 Vì vậy, hỡi các nước, hãy nghe; hỡi hội chúng, hãy biết điều xảy đến giữa chúng nó! 19 Hỡi đất, hãy nghe: Nầy, ta sẽ khiến tai vạ đến trên dân nầy, tức là quả báo của ý tưởng nó, vì nó chẳng chăm nghe lời ta, và đã bỏ luật pháp ta. ”(Giê-rê-mi 6: 17-19). Chúng ta phải chấp nhận sự sửa dạy mà Đức Chúa Trời mang đến cho chúng ta từ Lời của Ngài. Châm ngôn 15:10 cho biết kết quả sẽ ra sao nếu Cơ đốc nhân không xem xét lời cảnh báo của Truyền Đạo: " Sự hình phạt nặng nề dành cho kẻ bỏ chánh lộ; Và kẻ ghét lời quở trách sẽ chết mất. " (Châm ngôn 15:10).

Chúng ta phải biết ơn những người canh gác mà Đức Chúa Trời đã ban để chăm sóc cho chúng ta. Phao-lô khuyến khích chúng ta:

“Hỡi anh em, xin anh em kính trọng kẻ có công khó trong vòng anh em, là kẻ tuân theo Chúa mà chỉ dẫn và dạy bảo anh em. 13 Hãy lấy lòng rất yêu thương đối với họ vì cớ công việc họ làm. Hãy ở cho hòa thuận với nhau.” (I Tes 5:12-13)

Các tôi tớ của Đức Chúa Trời là một nhân tố quan trọng trong sự nên thánh của chúng ta. Chúng ta phải cầu nguyện cho họ và yêu mến họ vì họ đã cảnh báo và an ủi chúng ta với tư cách là những người phải khai trình lại với Đức Chúa Trời.

Trong phần này, Nhà truyền giáo Phúc âm thực hiện tốt lời hứa của mình để chỉ cho Cơ đốc nhân "những lời của Chúa." Ông tiếp tục trích dẫn hết câu Kinh thánh này đến câu Kinh thánh khác, vạch trần lỗi lầm của Cơ đốc nhân, dạy anh ta nhận ra và căm ghét tội lỗi của mình, và giải thích cho anh ta lý do tại sao việc bỏ Đạo là điều ngu ngốc. Trần Thế Khôn đã nói về "giáo lý của thế gian này", như 1 Giăng 4: 5 dạy: " Họ thuộc về thế gian, cho nên nói theo như thế gian, và người thế gian nghe họ. " Đối với Cơ Đốc Nhân, việc lắng nghe và chú ý lời khuyên của Trần Thế Khôn là một vấn đề nghiêm trọng, vì thế giới nghe và làm theo ý mình. Nếu Cơ đốc nhân biết nhiều Lời Đức Chúa Trời hơn, anh sẽ được trang bị tốt hơn để nhận ra sự khinh miệt của thế gian đối với đường lối của Đức Chúa Trời. Trần Thế Khôn là người mong muốn sự thoải mái và vui vẻ, tránh sự bắt bớ và đau khổ đến với những người tìm kiếm Thập tự giá (Ga-la-ti 6:12).

Nhà truyền đạo nhắc nhở Cơ đốc nhân rằng chỉ có một con đường để sống, và đó là qua Đường thẳng và Cổng hẹp:

“Hãy gắng sức vào cửa hẹp, vì, ta nói cùng các ngươi, nhiều người sẽ tìm cách vào mà không vào được.” (Lu-ca 13:24).

" Hãy vào cửa hẹp, vì cửa rộng và đường khoảng khoát dẫn đến sự hư mất, kẻ vào đó cũng nhiều. Song cửa hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, kẻ kiếm được thì ít. "Ma-thi-ơ 7: 13–14).

Khi Cơ Đốc Nhân lần đầu tiên kêu lên: "Tôi phải làm gì để được cứu?" Nhà truyền đạo đã chỉ đường. Nhưng Cơ Đốc Nhân đã không nhìn thấy Con đường sẽ đưa anh đến thập tự giá. Vì vậy, Nhà truyền đạo hướng anh ta một lần nữa để chú ý đến những lời cảnh báo của Kinh thánh.

Ông cảnh báo Cơ đốc nhân phải tính toán giá phải trả, như Môi-se đã làm khi đồng hóa mình với dân Chúa:

“Bởi đức tin, Môi-se lúc đã khôn lớn, bỏ danh hiệu mình là con trai của công chúa Pha-ra-ôn, đành cùng dân Đức Chúa Trời chịu hà hiếp hơn là tạm hưởng sự vui sướng của tội lỗi: người coi sự sỉ nhục về Đấng Christ là quí hơn của châu báu xứ Ê-díp-tô, vì người ngửa trông sự ban thưởng. ”(Hê-bơ-rơ 11: 24–26).

Và như Chúa Giê-xu đã làm khi Ngài dạy các môn đồ của Ngài:

“Vì ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, nhưng ai vì cớ Ta và phúc âm mà mất mạng sống mình thì sẽ được cứu” (Mác 8:35).

"Nếu ai đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đồ Ta. Còn ai không vác thập tự giá mình mà đến theo Ta thì không được làm Môn đồ của ta ”(Lu-ca 14: 26–27).

Cơ Đốc Nhân đã quay lưng lại với thập tự giá. Anh đã dễ dàng từ bỏ Con đường đến với Ân điển để tìm kiếm Luật pháp. Nhưng một lần nữa, lời cảnh báo rõ ràng đã vang lên trong Kinh thánh:

“Hãy nói cho tôi, anh em là kẻ ưa phục dưới luật pháp, há không nghe luật pháp sao? 22 Vì có chép rằng Áp-ra-ham có hai con trai: một là con của người nữ tôi mọi, một là con của người nữ tự chủ. 23 Nhưng con của người nữ tôi mọi sanh ra theo xác thịt, con của người nữ tự chủ sanh ra theo lời hứa. 24 Cả điều đó có một nghĩa bóng: hai người nữ đó tức là hai lời giao ước, một là lời giao ước tại núi Si-na-i, sanh con ra để làm tôi mọi ấy là nàng A-ga. 25 Vả, A-ga, ấy là núi Si-na-i, trong xứ A-ra-bi; khác nào như thành Giê-ru-sa-lem bây giờ, thành đó với con cái mình đều làm tôi mọi. 26 Nhưng thành Giê-ru-sa-lem ở trên cao là tự do, và ấy là mẹ chúng ta. 27 Vì có lời chép: Hỡi đàn bà son, ngươi là kẻ chẳng sanh nở chi hết, hãy vui mừng; Ngươi là kẻ chẳng từng chịu đau đớn sanh đẻ, hãy nức lòng mừng rỡ và bựt tiếng reo cười, Vì con cái của vợ bị để sẽ đông hơn con cái của người nữ có chồng. 28 Hỡi anh em, về phần chúng ta, chúng ta cũng như Y-sác, là con của lời hứa. 29 Nhưng, như bấy giờ, kẻ sanh ra theo xác thịt bắt bớ kẻ sanh ra theo Thánh Linh, thì hiện nay cũng còn là thể ấy. 30 Song Kinh Thánh, có nói gì? Hãy đuổi người nữ tôi mọi và con trai nó; vì con trai của người nữ tôi mọi sẽ không được kế tự với con trai của người nữ tự chủ. 31 Ấy vậy, hỡi anh em, chúng ta chẳng phải là con cái của người nữ tôi mọi, bèn là người nữ tự chủ.” (Ga-la-ti 4: 21–31).

Ngay cả khi Phao-lô giảng dạy cũng nhấn mạnh đến câu hỏi quan trọng: Kinh Thánh nói gì? Hết câu này đến câu khác, cảnh báo đến cảnh báo, sự thật đến sự thật, tôi tớ của Đức Chúa Trời yêu thương sửa chữa và khiển trách Người lữ khách lang thang này bằng cách đưa anh ta lặp đi lặp lại với Lời Đức Chúa Trời.

Trong cuộc đối thoại này, Bunyan tiết lộ lợi ích to lớn của việc biết và hiểu Kinh thánh. Nhà truyền đạo tìm thấy một người anh em đang cần, quả thật, một người anh em sắp đi lạc khỏi Con đường vào vòng nguy hiểm nghiêm trọng. Nhưng Nhà truyền đạo đã chuẩn bị và sẵn sàng giúp đỡ. Người ấy có Lời Chúa được giấu kín trong lòng. Nhà truyền đạo đã giữ Thanh Gươm được mài sắc bên mình và bây giờ rút nó ra vì lợi ích của anh em mình. Chúng ta hãy trang bị đầy đủ để có thể giữ mình không đi lạc vào những con đường sai lầm cũng như dạy dỗ và khuyên nhủ nhau trong lẽ thật và tình yêu thương.

Khi biết được mức độ nghiêm trọng của tội lỗi của mình, vì đã rời xa Con đường, Cơ Đốc Nhân đã vô cùng đau khổ và xấu hổ. Với lòng thương xót, Đức Chúa Trời đã phái Nhà truyền đạo đến cảnh báo cho anh em mình về những nguy hiểm đang chờ đợi những ai cố gắng tìm kiếm ân huệ của Đức Chúa Trời bằng chính công lao của họ. Nhà truyền đạo đã xác nhận tính trung thực của lời nói của mình với thẩm quyền của Lời Đức Chúa Trời, trích dẫn từ Ga-la-ti 3:10:

Vì có bao nhiêu công việc của luật pháp bị nguyền rủa; vì có lời chép rằng: " Vì mọi kẻ cậy các việc luật pháp, thì bị rủa sả, bởi có chép rằng: Đáng rủa thay là kẻ không bền đỗ trong mọi sự đã chép ở sách luật, đặng làm theo những sự ấy!"

Trong câu này Phao-lô trích dẫn từ Cựu ước:

“Đáng rủa sả thay kẻ nào không giữ các lời của luật pháp nầy để làm theo!” (Phục truyền luật lệ ký 27:26)

Chúa đòi hỏi sự hoàn hảo. “Thế thì các ngươi hãy nên trọn vẹn, như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn.” (Ma-thi-ơ 5:48). Vấp ngã và không tuân giữ bất kỳ phần nào của Luật pháp Đức Chúa Trời là không tuân giữ toàn bộ Luật pháp. Luật pháp là thánh thiện, công bình và tốt lành (Rô-ma 7:12). Nhưng chúng ta tội lỗi: "vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời" (Rô-ma 3:23). Và vì thế Phao-lô khẳng định “bởi các việc làm của luật pháp, không xác thịt nào được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp là sự hiểu biết về tội lỗi” (Rô-ma 3:20). Hy vọng duy nhất của chúng ta, nếu chúng ta được tha thứ và tuyên bố là công bình trước mặt Đức Chúa Trời, là tin vào Chúa Giê-xu và nhận sự công bình của Đức Chúa Trời nơi Ngài. Chỉ có đổ huyết và những công việc hoàn hảo của Chúa Giê-su mới có thể tẩy rửa và cứu chúng ta. Những tác phẩm của chính chúng ta, từng bị vấy bẩn bởi tội lỗi, chỉ có thể lên án chúng ta.

Cơ Đốc Nhân thấy sự ngu ngốc khi từ bỏ Con đường và tự hỏi liệu giờ anh có thể quay trở lại và tìm kiếm Cổng hẹp một lần nữa hay không. Khi những ân tứ của đức tin và sự ăn năn được thổi bùng lên trong tấm lòng Cơ đốc nhân, Nhà truyền đạo luôn đồng hành với anh để đưa ra những lời khuyên thực sự khôn ngoan. Lời khuyên của Nhà truyền đạo bao gồm sự khiển trách, an ủi và cảnh báo.

Nhà truyền đạo bắt đầu câu trả lời của mình cho lời cầu xin của Cơ Đốc Nhân: "Tội lỗi của tôi có thể được tha thứ không?". Nhà truyền đạo không xem nhẹ mức độ nghiêm trọng của tội lỗi của Cơ đốc nhân, nhưng tuyên bố nó "rất lớn." Điều đó thật đáng sợ vì hai lý do. Đầu tiên, nó khiến Cơ Đốc Nhân từ bỏ Con đường. Nó đã cản trở anh theo đuổi và tìm kiếm Chúa Giêsu, là Đường đi, Lẽ thật và Sự sống. Nhưng Trần Thế Khôn không chỉ thuyết phục Cơ đốc nhân khỏi Con đường, mà còn khiến anh ta đi vào những con đường cấm. Thay vì tìm kiếm Thập tự giá, Cơ Đốc Nhân giờ đây đã bị ràng buộc vì một Lời Rủa sả.

Sau đó, lời quở trách được tiếp theo bằng sự an ủi. “Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu.” (Thi-thiên 51:17), và Nhà truyền đạo đảm bảo với Cơ đốc nhân rằng anh ta sẽ không bị từ bỏ. Sự an ủi này sau đó được xác nhận bằng cả nụ hôn và mỉm cười khi Nhà truyền đạo bảo Cơ Đốc Nhân hãy đi tìm Cổng hẹp lần nữa.

Sự ăn năn thành thật của Cơ đốc nhân được thể hiện qua sự khiêm nhường và nhanh chóng của anh. Anh siêng năng vâng theo Lời Chúa và buồn bực trước tội lỗi của mình. Anh không đánh lừa tội lỗi, nhưng tránh xa những gì anh biết là sai. Anh không cố gắng bào chữa hoặc biện minh cho tội lỗi của mình trước những người khác, hoặc cho phép người khác mang lại cho anh ta niềm an ủi hoặc hy vọng giả tạo, như Trần Thế Khôn đã làm. Cơ đốc nhân coi tội lỗi là "vùng đất cấm" và với tất cả sự nhanh chóng, anh chạy trốn khỏi nó để trở lại Con đường (2 Cô-rinh-tô 7: 9-11).

Tình yêu và sự quan tâm của Nhà truyền đạo dành cho anh em mình cũng được thể hiện qua một lời cảnh báo. Trích dẫn từ Thi thiên 2:12, ông hướng dẫn Cơ đốc nhân học hỏi từ lỗi lầm của mình và không quay sang một bên nữa:

“Hãy hôn Con, e Người nổi giận, Và các ngươi hư mất trong đường chăng; Vì cơn thạnh nộ Người hòng nổi lên. Phàm kẻ nào nương náu mình nơi Người có phước thay!”

Cụm từ cuối cùng của câu này là lời hứa tươi sáng hơn trái ngược với sự phán xét đáng sợ mà Cơ đốc nhân gần như đã sa vào: Đáng rủa sả cho những ai đặt niềm tin vào sự công bình và công việc của họ. 

SUY GẪM

Điền những từ in nghiêng bên dưới vào chỗ trống:

1.     Chủ của ngôi nhà mà Trần Thế Khôn giới thiệu Cơ Đốc Nhân đến là ai?

2.     Run lên vì sợ hãi

3.     Chúng ta không thể được xưng công bình bởi các việc làm………..

4.     Con trai của Nguyễn Trọng Luật là ………………., không thể tự giải cứu chính mình và Cơ Đốc Nhân.

5.     Cơ Đốc Nhân thấy gì ở đỉnh đồi?

6.     Người công bình sẽ sống bởi…..…………..

7.     Cơ Đốc Nhân vô cùng sợ hãi vì lỗi của anh ấy khi xây bỏ con đường chánh đáng, nhưng

8.     Vị Truyền đạo nói với anh: “Chớ cứng lòng, song………………”

9.     Vẻ mặt của Vị Truyền đạo khi nhìn thấy Cơ Đốc Nhân đi sai đường là…………………

10.Tất cả chúng ta phải cố gắng để vào cửa……………

11.Cơ Đốc Nhân cảm thấy thế nào khi anh ấy nhìn thấy Vị Truyền đạo?

12.Cơ Đốc Nhân than trách mình thật là……………….khi nghe theo lời của Trần Thế Khôn.

Nguyễn Trọng Luật; Xấu hổ vô cùng; Chớp nhoáng, sấm sét; Đức tin; Nghiêm khắc và đáng sợ; Lập cập; Hẹp; Ngu dại; Nguyễn Trọng Lễ; Đạo đức; Hãy tin

ĐÀO SÂU

Cơ Đốc Nhân thầm nghĩ "Nếu thật như lời Trần Thế Khôn đã nói ..." Dựa theo

Công vụ 17: 10–12, làm sao Cơ đốc nhân có thể biết điều gì là sự thật?

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

Vị Truyền đạo trả lời ra sao về lời dạy của Trần Thế Khôn?

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

Tại sao ông ta được gọi là Trần Thế Khôn? (Xin xem 1 Giăng 4: 1–6.).............................

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

Đọc Công vụ 15: 1–35 và Ga-la-ti 6: 12–16. Làm thế nào một số người hoạt động như những nhà thông thái thế gian trong thời của Phao-lô.............................................................

...................................................................................................................................

Những lời dạy về "con đường tốt đẹp hơn" của các nhà thông thái thế gian ngày nay thật khó hiểu và gây lầm tưởng cho những người mong muốn được trút bỏ gánh nặng tội lỗi và đạt được sự sống đời đời như thế nào? 

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2021

THIÊN LỘ LỊCH TRÌNH-CHƯƠNG 5: TRẦN THẾ KHÔN

 CHƯƠNG 5: TRẦN THẾ KHÔN

“Tôn giáo là tốt, miễn là bạn giữ nó đúng chỗ. Đi nhà thờ là tốt miễn là bạn duy trì sự cân bằng với phần còn lại của cuộc sống và nếu như bạn tránh đi đến những cực đoan.” Chúng ta đã nghe điều gì đó tương tự như thế này biết bao lần mỗi khi mà chúng ta cố gắng trình bày một lý do trong Kinh thánh cho cuộc sống, đạo đức và ứng xử?

Ông Trần Thế Khôn có nhiều lời khuyên dành cho người lữ khách, nhưng tiếc là sự hướng dẫn của ông ta còn phá hủy tàn hại hơn cả Vũng lầy Tuyệt vọng. Ông ấy xem tôn giáo là việc diễn ra mỗi tuần một lần — một lời tuyên bố xã hội. Ông là công dân được kính trọng, có ảnh hưởng của cộng đồng mà chúng ta thấy nghịch lại đối với bất kỳ loại hoạt động tôn giáo nào có thể cản trở việc theo đuổi thú vui trần tục hoặc lợi ích tiền bạc của ông ta. Phương châm của ông ta là "tôn giáo hợp thời cho người hợp thời." Thay vì nhìn tội lỗi với sự tuyệt vọng của người lữ khách và nỗi thống khổ của linh hồn do một lương tâm nhạy cảm, ông ta không mang gánh nặng nào trên lưng, và ông ta cũng không mang nặng cảm giác tội lỗi. Ông ta không có ý thức về trách nhiệm đạo đức cũng như không sợ phải sự phán xét đời đời. Hơn nữa, sự phản bội của ông ta được tìm thấy trong lời khuyên mà ông cho rằng một người có thể phục vụ đồng thời cả Đức Chúa Trời và Satan.

Tuy nhiên, Trần Thế Khôn không phải là không có một số mức độ phân biệt tôn giáo, vì ông nhận ra rằng Cơ đốc nhân có gánh nặng và khuyên anh ta "hãy tìm cách cất bỏ gánh nặng càng sớm càng tốt " Bằng cách nào? Bằng cách đi đến làng đặt tên là Đạo đức và tìm kiếm sự hướng dẫn của một người tên là Nguyễn Trọng Luật, một người cũng có uy tín và là người có tư cách tốt. Như Trần Thế Khôn, Nguyễn Trọng Luật hỗ trợ tinh thần cho tất cả những ai tha thiết tìm kiếm sự giảm bớt sức nặng tội lỗi của họ nhưng mù quáng trước nguy cơ tìm kiếm một sự an ủi giả tạo, và có kết cục bi thảm.

Lưu ý điểm chính trong câu hỏi của Trần Thế Khôn: "Làm sao anh cảm biết được gánh nặng đó? " Trả lời: “Nhờ đọc cuốn sách này đây.”  Câu trả lời của Trần Thế Khôn đã không thay đổi qua nhiều thế kỷ từ thời Bunyan đến thời của chúng ta: “Chỉ những người yếu đuối mới đọc Kinh thánh.” “Kinh thánh chứa đựng quá nhiều điều khó hiểu”.

“Nó chứa đầy những thứ gây xao nhãng” (Dịch: Nó phủ nhận đàn ông và quyền con người thực sự của phụ nữ, làm cho họ kém hơn những gì họ phải có, đàn áp họ.) “Nó khiến họ rời xa nhà và gia đình của họ sau những giấc mơ viển vông.”

Đây chẳng phải là cách của tâm lý học hiện đại, nhà trị liệu tâm thần và nhà gíao dục tinh hoa hay sao? Chắc chắn có nhiều phương pháp hơn trong hiện nay quan tâm đến việc treo máy hơn là tìm kiếm các trang của một cuốn sách cổ từ lâu đã được chứng minh là lỗi thời. Chắc chắn chúng ta đã đến tuổi trưởng thành và nhận ra rằng nếu có bất kỳ thay đổi xã hội nào vì lợi ích của nhân loại, chúng ta phải giữ của vấn đề và tự mình giải quyết.

Do đó, nhiều người đã chạy đến làng Đạo đức và đã áp dụng mọi biện pháp pháp lý để trút bỏ gánh nặng khỏi lưng họ. Mọi nổ lực như việc làm tốt, từ thiện và sự hy sinh của bản thân — tất cả đều để đẹp lòng Đức Chúa Trời và nhận được ân huệ của Ngài. Nhưng gánh nặng vẫn còn đó, sức nặng vẫn còn nặng nề và luật pháp với niềm tin đau khổ vẫn còn hét lên, "Ngươi có tội!"

Kinh thánh khá rõ rang: " Bởi vì lời giảng về thập tự giá, thì những người hư mất cho là điên dại; song về phần chúng ta, là kẻ được cứu chuộc, thì cho là quyền phép của Đức Chúa Trời.”(1 Cô-rinh-tô 1:18, NKJV).

GIẢI NGHĨA CỦA KEN PULS

Cho đến nay trong cuộc hành trình, Cơ Đốc Nhân đã phải đối mặt và chiến thắng hai thử thách có nguy cơ khiến anh quay trở lại với Thành Hủy Diệt. Đầu tiên, anh ta phải trả giá với gia đình và thậm chí bị những người hàng xóm đuổi theo, những người tìm cách đưa anh ta trở lại. Tuy nhiên, Cơ Đốc Nhân đã có ý định chạy trốn cơn thịnh nộ sắp tới và Bunyan chép: "Nhưng anh bịt tai lại, cứ vừa chạy vừa la lớn: “Sống! Sống! Tôi đi tìm sự sống đời đời!" Anh không quay nhìn lại sau, cứ chạy trốn ra khỏi thành phố, hướng về giữa cánh đồng.” Khi những người hàng xóm của anh ta rượt theo, anh đã làm chứng ​​cho họ và thậm chí thuyết phục được một người, là Ba Phải, cùng đi với anh được một thời gian. Nhưng ngay sau đó, thử nghiệm thứ hai đã đến, là Vũng lầy Tuyệt Vọng. Con đường này quá sức đối với Ba Phải, nhưng Cơ Đốc Nhân "đã cố gắng tranh chiến để đến được phía bên kia của Vũng Lầy, cách xa ngôi nhà của anh, và đến bên cạnh Cổng Hẹp." Sự chế giễu của thế gian cũng như đối mặt với sự ô uế của tội lỗi đều không thể khiến Cơ đốc nhân từ bỏ Con đường Chân lý. Giờ đây, khi tiếp tục cuộc hành trình, Cơ Đốc Nhân phải đối mặt với một thử thách tồi tệ hơn nhiều, một thử thách mà lần đầu tiên anh thấy mình đã đi sai đường. Anh không thể quay lại, nên bây giờ kẻ thù tìm cách gạt anh sang đường khác.

Vậy điều gì đã khiến Cơ Đốc Nhân trở thành mục tiêu dễ bị tấn công như vậy? Đầu tiên hãy chú ý rằng anh ấy đang đi một mình. Cơ Đốc Nhân tiếp tục đi "một mình lủi thủi trên đường." Anh không có nhà Truyền giáo khôn ngoan bên cạnh, cũng không có sự an ủi và lời khuyên của một lữ khách nào khác. Thậm chí còn không có Ba Phải đồng hành với mình. Ở phần sau của câu chuyện, Cơ đốc nhân sẽ học được giá trị của việc đi cùng với những người bạn đồng hành tin kính. Nhưng hiện tại, kẻ thù tìm thấy cơ hội trong khi anh ta đang đi một mình.

Thứ hai, hãy lưu ý rằng cuộc gặp gỡ giữa Cơ Đốc Nhân và Trần Thế Khôn là không thể tránh khỏi. Họ đang băng qua đường của nhau - đi ngược chiều nhau. Mặt của Cơ Đốc Nhân thì hướng về Sự sống đời đời, còn mặt của người kia hướng về thế gian. Ông Trần Thế Khôn sống ở tỉnh Nhục Tình (tánh xác thịt). Ông ta có tâm hồn xác thịt và do đó thù địch với Đức Chúa Trời (Rô-ma 8: 5-8).

Và thứ ba, hãy lưu ý rằng cuộc gặp gỡ đã được sắp đặt sẵn. Cơ Đốc Nhân đã thấy một người từ xa, băng qua cánh đồng để đến gặp anh. Ông Trần Thế Khôn đã nghe tin về sự ra đi của Cơ Đốc Nhân và đã hẹn gặp anh. Khi Trần Thế Khôn thỏa mãn sự tò mò của mình bằng cách đặt câu hỏi với Cơ Đốc Nhân, Satan đã giăng ra cái bẫy đầu tiên để khiến Cơ Đốc Nhân lạc lối.

Khi cuộc trò chuyện bắt đầu, Trần Thế Khôn đưa ra lời khuyên về nỗi đau và rắc rối mà Gánh nặng đã gây ra cho anh. Cơ Đốc Nhân vừa thoát khỏi một cuộc đấu tranh khó khăn trong Vũng lầy. Mặc dù anh đang trung thành đi theo Con đường mà Vị Truyền đạo bảo anh, nhưng anh lại rơi vào rắc rối khác. Một con đường hoặc giải pháp dễ dàng hơn bây giờ xuất hiện với đầy cám dỗ. Lời khuyên của thế giới này thật hấp dẫn. Cơ Đốc Nhân sẵn sàng để lắng nghe, mặc dù anh sắp bị thế gian lừa dối.

Trong 1 Cô-rinh-tô, Phao-lô cảnh báo chúng ta nhiều lần đừng theo đuổi sự khôn ngoan của thế gian. Thứ nhất, sự khôn ngoan của thế gian không thể giúp chúng ta tìm thấy hoặc biết về Chúa. “Vì, tại thế gian cậy sự khôn ngoan mình, chẳng nhờ sự khôn ngoan Đức Chúa Trời mà nhận biết Đức Chúa Trời, nên Ngài đành lòng dùng sự giảng dồ dại của chúng ta mà cứu rỗi những người tin cậy.” (1 Cô-rinh-tô 1:21). Sự khôn ngoan của thế giới cố để hạ Đức Chúa Trời xuống, định nghĩa sai về Đức Chúa Trời, hoặc thậm chí phủ nhận sự tồn tại của Ngài. Hắn bảo Cơ Đốc Nhân rằng lời khuyên của Truyền đạo thật ác độc, nhưng thực sự thì Truyền đạo mới là người có thông điệp thực sự về cuộc sống. Sự khôn ngoan và quyền năng của Đức Chúa Trời được biết đến tại thập tự giá (1 Cô-rinh-tô 1:24) qua việc trung tín rao giảng Phúc Âm. Tin Lành này có vẻ ngu xuẩn đối với Trần Thế Khôn, nhưng cuối cùng nó chính là sự cứu rỗi cho Cơ đốc nhân.

Thứ hai, sự khôn ngoan của thế giới không thể tin cậy được. “hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là trên quyền phép Đức Chúa Trời.” (1 Cô-rinh-tô 2: 5). Vị Truyền đạo chỉ cho Cơ đốc nhân tìm kiếm Chúa Giê-xu Christ, Ngài là Đường đi, Lẽ thật và Sự sống duy nhất (Giăng 14: 6). Sự độc nhất của Chúa Jêsus Christ được tượng trưng trong câu chuyện của Bunyan bằng cánh cổng hẹp. Chính qua cánh cổng này, chúng ta tìm thấy thập giá và chứng kiến ​​quyền năng của Chúa. “Bởi vì lời giảng về thập tự giá, thì những người hư mất cho là điên dại; song về phần chúng ta, là kẻ được cứu chuộc, thì cho là quyền phép của Đức Chúa Trời.” (1 Cô-rinh-tô 1:18). Lời Đức Chúa Trời có câu trả lời duy nhất để cất bỏ Gánh nặng. Nếu chúng ta đặt niềm tin vào bất kỳ giải pháp nào hoặc có mục đích nào khác, chúng ta sẽ chết trong tội lỗi của mình.

 Cuối cùng, sự khôn ngoan của thế giới thật sự là ngu ngốc. " vì sự khôn ngoan đời nầy trước mặt Đức Chúa Trời là sự dại dột. Như có chép rằng: Ấy là Chúa bắt những kẻ khôn ngoan trong mưu kế họ. (1 Cô-rinh-tô 3:19). Trần Thế Khôn cảnh báo về nhiều nguy hiểm trên đường để tìm cách thuyết phục Cơ đốc nhân từ bỏ con đường hiện tại của mình. Chạy trốn khỏi nguy hiểm có vẻ là điều khôn ngoan. Nhưng Chúa Giê-xu dạy rằng " Nếu ai muốn theo ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta. Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mất sự sống, thì sẽ cứu. "(Lu-ca 9: 23-24). Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần. (Rô-ma 8:37). “Có một con đường dường như đúng đắn đối với loài người, nhưng cuối cùng của nó là con đường chết” (Châm-ngôn 14:12).

Một điểm cuối cùng đáng chú ý trong phần mở đầu của cuộc trò chuyện giữa Cơ Đốc Nhân và Trần Thế Khôn. Sau khi Trần Thế Khôn đưa ra lời khuyên, Cơ đốc nhân nói rằng anh ta sẽ chấp nhận nếu điều đó tốt. Do đó, Trần Thế Khôn bắt đầu với một số lời khuyên tốt đẹp: "không những tôi sẽ chỉ cho anh nhận được điều anh tìm kiếm, chẳng còn phải đi con đường nguy hiểm này, mà còn cho anh thấy phương cách cất bỏ gánh nặng nữa." Đúng là Cơ Đốc Nhân sẽ không có được sự thanh thản trong tâm hồn khi anh còn phải chịu sức nặng và cảm giác tội lỗi. Cơ Đốc Nhân bị lôi cuốn bởi sự thật trong tuyên bố của Trần Thế Khôn, nên nói: "Đó là điều tôi tìm kiếm." Chỉ sau khi Cơ đốc nhân cắn câu, Trần Thế Khôn mới bắt đầu dẫn anh ta đi lạc đường, đầu tiên là bằng cách tố cáo tôi tớ của Đức Chúa Trời, là vị Truyền đạo, và sau đó bằng cách tố cáo sứ điệp của Đức Chúa Trời mà Truyền đạo đã nói.

Chúng ta phải học cách thận trọng và đề phòng những nỗ lực của Sa-tan khi chúng ta tiếp xúc với những tư tưởng thù địch với Đức Chúa Trời và trái với phúc âm. Ma quỷ hiếm khi thẳng thắn với những lời nói dối và tà giáo. Khi hắn muốn tấn công những lữ khách phạm lỗi, hắn thường dùng cách lừa dối họ. Phao-lô cảnh báo chúng ta rằng chính Sa-tan tự biến mình thành thiên thần sáng láng. Ma quỷ có thể biến những gì có màu đen thành màu trắng. Phao-lô bày tỏ sự lo lắng để hội thánh Cô-rinh-tô không mắc vào bẫy này:

“Nhưng tôi ngại rằng như xưa Ê-va bị cám dỗ bởi mưu chước con rắn kia, thì ý tưởng anh em cũng hư đi, mà dời đổi lòng thật thà tinh sạch đối với Đấng Christ chăng. Vì nếu có người đến giảng cho anh em một Jêsus khác với Jêsus chúng tôi đã giảng, hoặc anh em nhận một Thánh Linh khác với Thánh Linh anh em đã nhận, hoặc được một Tin Lành khác với Tin Lành anh em đã được, thì anh em chắc dung chịu!” (II Cô-rinh-tô 11: 3-4)

Satan có thể nói dối và che đậy bằng một sự thật nào đó, để che giấu ý đồ của nó. Khi đó, ma quỷ đã giăng ra một cái bẫy chết người. Nếu chúng ta không nhận ra vì nó được trang trí trong lớp vỏ bọc chân thật, chúng ta sẽ nuốt nó vào lòng cách đau đớn, giống như Cơ Đốc Nhân bị lung lay với lời khuyên của Trần Thế Khôn và, như chúng ta sẽ thấy, cuối cùng đi lạc ra khỏi Con đường vào một nơi nguy hiểm.

 Ngoài ra còn có một cách sử dụng mỉa mai thú vị được tìm thấy trong cuộc trò chuyện này. Trần Thế Khôn tiếp tục chê bai Truyền đạo vì lời khuyên của ông cho Cơ Đốc Nhân. Hắn kết thúc bằng lập luận: "Và tại sao một người có thể hy sinh và dành sự quan tâm cho một Người lạ chứ?" Tuy nhiên, Cơ Đốc Nhân sắp làm điều này khi nghe theo Trần Thế Khôn! Thế giới không dễ dàng đánh mất cái riêng của nó. Trần Thế Khôn ở đây tuyên bố Cơ Đốc Nhân như một người bạn và nói về những người truyền bá Phúc âm như những người ngoài cuộc.

Khi câu chuyện tiếp tục, chẳng bao lâu nữa, Cơ đốc nhân sẽ học được một bài học quý giá: "Phước cho người nào không theo mưu kế của kẻ dữ" (Thi thiên 1: 1). “Tư tưởng người nghĩa chỉ là công bình; Song mưu luận kẻ ác đều là giả dối.” (Châm ngôn 12: 5).

Bất chấp những lời cảnh báo về rắc rối và nguy hiểm trên Con đường, cũng như sự khinh bỉ và chế giễu dồn lên vị Truyền đạo, Cơ Đốc Nhân vẫn bị thuyết phục để tiếp tục và tìm sự giải thoát. Do đó Trần Thế Khôn đưa ra một lập luận khác để giành lấy Cơ Đốc Nhân về phía mình. Hắn hỏi về nguồn gốc gánh nặng của Cơ Đốc Nhân. Anh bắt đầu mặc cảm và bị tội lỗi đè nặng từ khi nào? Cơ Đốc Nhân trả lời một cách trung thực rằng việc đọc Kinh thánh đã làm nảy sinh niềm tin của anh ấy. Chính Lời Đức Chúa Trời xác nhận trong Thi thiên 19: 7-11:

“Luật pháp của Đức Giê-hô-va là trọn vẹn, bổ linh hồn lại; Sự chứng cớ Đức Giê-hô-va là chắc chắn, làm cho kẻ ngu dại trở nên khôn ngoan. Giềng mối của Đức Giê-hô-va là ngay thẳng, làm cho lòng vui mừng; Điều răn của Đức Giê-hô-va trong sạch, làm cho mắt sáng sủa. Sự kính sợ Đức Giê-hô-va là trong sạch, hằng còn đến đời đời; Các mạng lịnh của Đức Giê-hô-va là chân thật, thảy đều công bình cả. Các điều ấy quí hơn vàng, thật báu hơn vàng ròng; Lại ngọt hơn mật, hơn nước ngọt của tàng ong. Các điều ấy dạy cho kẻ tôi tớ Chúa được thông hiểu; Ai gìn giữ lấy, được phần thưởng lớn thay.

Tuy nhiên, Trần Thế Khôn lại lên án Kinh thánh và tác động của nó đối với đời sống của Cơ đốc nhân. Hắn kết án việc đọc Kinh thánh vì ba lý do. Đầu tiên, hắn khẳng định đó là một dấu hiệu của sự yếu đuối. Đối với thế gian, tất cả các tôn giáo đều là sự yếu đuối, có lẽ chỉ phù hợp với phụ nữ hoặc trẻ em, nhưng chắc chắn không phải là đặc điểm của đàn ông. Đàn ông được cho là phải mạnh mẽ và biết kiểm soát, không thừa nhận sự bất lực trước sức nặng của một gánh nặng. Trong mắt thế gian, Cơ Đốc Nhân là một kẻ thất bại.

Thứ hai, Trần Thế Khôn khẳng định rằng việc đọc Kinh thánh gây mất tập trung. Hắn tin rằng Cơ Đốc Nhân nên tạo dựng tên tuổi cho bản thân, tìm kiếm niềm vui và sự giàu có, tận hưởng bản thân, theo đuổi danh tiếng và tài sản. Thay vào đó, Cơ Đốc Nhân mãi đứng trước đau buồn và đè nặng bởi tội lỗi. Một lần nữa, Cơ Đốc Nhân là một kẻ thất bại trong mắt hắn ta.

 Cuối cùng, Trần Thế Khôn bóng gió rằng việc làm theo Đường lối của Kinh thánh là vô nghĩa. Ông ám chỉ việc theo đuổi của Cơ đốc nhân để tìm kiếm bình an theo con đường Phúc âm là "tuyệt vọng." Thế giới có nhiều người sống bằng mắt thấy, nắm giữ và bám vào những gì họ có thể nhìn thấy. Những người sống bằng đức tin "không biết được tương lai mình ra sao" được coi là ngu ngốc.

Một lần nữa, đằng sau sự chế giễu và khinh bỉ của Trần Thế Khôn, chúng ta có thể phát hiện ra hành động của ma quỷ. Sa-tan từ lâu đã khinh thường Lời Đức Chúa Trời. Những lời đầu tiên của ông với Ê-va trong vườn là "Có thật Đức Chúa Trời đã phán ...?" (Sáng thế ký 3: 1). Ngay cả ngày hôm nay cuộc tấn công của hắn vẫn tiếp tục. Những lời trong Kinh thánh thường bị chế giễu và coi là thần thoại, không chính xác, không liên quan hoặc lỗi thời.

Nhưng đối với Cơ đốc nhân, Kinh thánh là một cuốn sách quý. Nếu chúng ta muốn tìm ra Con đường Chân lý thì phải từ những lời Kinh thánh. Toàn bộ Kinh thánh hướng chúng ta đến Chúa Giê-xu (Lu-ca 24:27), Đấng có "những lời của sự sống đời đời" (Giăng 6:68). Phao-lô nói với chúng ta: đức tin đến bằng việc nghe, và nghe bởi Lời Đức Chúa Trời (Rô-ma 10:17). Chúng ta hãy giữ lấy Những Lời Sự Sống và công bố chúng bất chấp sự khinh bỉ của thế gian.

Mặc dù khó khăn lắm để bắt đầu cuộc hành trình, Cơ Đốc Nhân đã mệt mỏi vì phải vật lộn trong Vũng Lầy. Anh vẫn chưa có kinh nghiệm trong cuộc hành trình và cảm thấy gánh nặng của mình bây giờ nặng hơn bao giờ hết. Trong lúc tuyệt vọng để trút bỏ gánh nặng, anh đã xiêu lòng khi nghe lời nói hấp dẫn đầy cám dỗ của Trần Thế Khôn, người đã chỉ cho anh một con đường tắt, một nơi ẩn náu để tránh xa những cuộc chiến hàng ngày với tội lỗi.

Nơi ẩn náu này là Làng Đạo đức. Làng này đại diện cho một nhóm người vĩ đại, những người luôn tìm cách làm lành lánh dữ, nhưng không kính sợ Chúa hoặc sợ sự phán xét. Họ hy vọng trở thành người tốt và làm những điều tốt đẹp thì cuối cùng tất cả sẽ thành công. Họ giữ luật pháp bề ngoài trước mắt người đời và có thể nói giống người trẻ tuổi giàu có rằng: “Thưa Thầy, tôi đã tuân giữ tất cả những điều này từ thuở còn trẻ” (Mác 10:20). Lời khuyên của Trần Thế Khôn đối với Cơ Đốc Nhân về cơ bản là hãy trở thành một người tốt rồi mọi chuyện sẽ tốt đẹp.

Các công dân của Làng Đạo đức tìm đến ngài Nguyễn Trọng Luật để xoa dịu lương tâm của họ. Họ bám vào sự tuân giữ luật pháp bề ngoài, sự công bình luôn tìm cách lấn át điều xấu bằng điều tốt. Nếu Nguyễn Trọng Luật không có ở nhà (tức là luật đạo đức không được tôn trọng trong nền văn hóa hiện nay) thì con là Nguyễn Trọng Lễ sẽ làm được. Chỉ cần cố gắng hòa đồng với mọi người, cư xử lịch thiệp và nhân từ đối với đồng loại thì tất cả đều sẽ tốt đẹp. Bunyan mô tả thời gian lưu trú của chính mình tại Làng này như sau:

"Vì vậy, tôi đã rơi vào một số cải cách bên ngoài, cả trong lời nói và cuộc sống của tôi, và đã đặt ra các điều răn trước mặt tôi để tìm đường lên trời; điều răn nào tôi cũng cố gắng tuân giữ, và như tôi nghĩ, đôi khi đã giữ chúng khá tốt, và sau đó tôi nên có được sự thoải mái; nhưng bây giờ và sau đó tôi đã phạm một điều, và vì vậy lương tâm tôi đau khổ; nhưng sau đó tôi nên ăn năn và xin lỗi về điều đó, và hứa với Chúa sẽ làm tốt hơn vào lần sau, và sẽ được giúp đỡ thêm lần nữa, vì vậy tôi nghĩ rằng tôi đã làm hài lòng Chúa cũng như bất kỳ người nào ở nước Anh. " [Ân sủng dồi dào đối với Thủ lĩnh Tội lỗi, 30]

Tuy nhiên, làng này còn gặp nguy hiểm lớn hơn cả Thành phố Hủy diệt. Trong Thành phố Hủy diệt, mối nguy hiểm đã hiển hiện; sự gian ác và thù địch chống lại Đức Chúa Trời đã rõ ràng. Tuy nhiên, ở làng này, gánh nặng được vứt bỏ. Tội lỗi được dập tắt và im lặng. Công dân của nó bị lừa khi tin rằng tất cả đều ổn. Họ nói bình an, bình an! Mà không có bình an chi hết (Giê-rê-mi 6:14).

Chúng ta hãy tránh xa lời nói dối ma quỷ nói với chúng ta rằng con người có thể giải quyết vấn đề của chính mình, rằng nỗ lực làm điều tốt có thể xóa bỏ mặc cảm tội lỗi. Chỉ có thập tự giá, chỉ huyết của Đấng Christ đổ ra mới có thể mang lại bình an và sự cứu chuộc tội (Cô-lô-se 1:20). Cơ Đốc Nhân sẽ sớm biết rằng đi lạc khỏi Con đường đến thập tự giá quả thật là một điều nguy hiểm.

SUY GẪM

1.     Trên sơ đồ, điền vào ô A, B và C các ý kiến ​​của những người hàng xóm của Ba Phải. Viết ý kiến ​​ của bạn về Ba Phải trong hình vuông D.


2.     Làm thế nào ông Trần Thế Khôn biết về Cơ Đốc Nhân?

..........................................................................................................................   

..........................................................................................................................   

3.     Ông Trần Thế Khôn tuyên bố rằng đường đến cửa Hẹp là "nguy hiểm và đầy gai chông". Đọc Ma-thi-ơ 7: 13–14. Vẽ hình ảnh của hai con đường và mô tả cách nhìn của họ về 2 con đường?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

4.     Ông Trần Thế Khôn dường như có lời giải đáp hay cho tình huống khó xử của Cơ Đốc Nhân, phải không? Làm thế nào bạn có thể biết một người có thực sự khôn ngoan hay không? (Xin xem gợi ý ở 1 Giăng 4: 1–6 và Gia-cơ 1: 5.)

..........................................................................................................................   

..........................................................................................................................   

5.     Ông Trần Thế Khôn hướng dẫn Cơ Đốc Nhân đến một người tên là Nguyễn Trọng Luật, người có thể giúp anh ta thoát khỏi gánh nặng một cách nhanh chóng. Đây có phải là lời khuyên tốt không?

..........................................................................................................................

6.     Viết những câu Kinh Thánh này và cho biết có bao nhiêu cách để được cứu? Giăng 14: 6; Công vụ 4:12?  


.....................................................

7.     Đọc to câu Thi Thiên 1:1-2. Bạn đếm được có bao nhiêu động từ? Viết xuống ba điều mà một người "có phước" không nên làm và hai điều người ấy nên làm?

..........................................................................................................................

..........................................................................................................................

..........................................................................................................................

8.     Hãy làm một “Thám tử khôn ngoan”. Đọc Châm-ngôn 10 và xem cách Sa-lô-môn mô tả người khôn ngoan như thế nào. Viết ra một số cụm từ mà bạn muốn ghi nhớ. Cầu xin Chúa giúp bạn phát triển những tính cách của một người khôn ngoan?

..........................................................................................................................

..........................................................................................................................

 ĐÀO SÂU

Chúa Giê-su nói gì trong Lu-ca 9:62 về những người như Ba Phải?

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

Giăng 14: 6 và Công vụ 4:12 nói gì về con đường dẫn đến sự sống đời đời?

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

Trần Thế Khôn hứa với Cơ Đốc Nhân điều gì nếu anh ta làm theo lời khuyên của mình?.

...................................................................................................................................

...................................................................................................................................

Những đoạn Kinh Thánh sau đây khác với lời hứa của Trần Thế Khôn như thế nào? Ma-thi-ơ 8: 18–22, 11: 28–30; Giăng 16: 32–33; Lu-ca 14: 25–33; 2 Ti-mô-thê 3: 10–13...................

...................................................................................................................................