CHƯƠNG 3
NHỮNG VIỆC CÒN LẠI ĐỜI ĐỜI
Khi còn nhỏ, Amy rất thích cưỡi chú ngựa bé nhỏ Jenny của cô qua vùng cát bụi mù mịt ở Ái Nhĩ Lan. Một ngày kia, Amy té từ lưng ngựa xuống và bất tỉnh. Nhiều tuần lễ trôi qua, cô nằm bất động trên giường. Cổ và đầu bị nêm chặt giữa hai bao cát nặng nề. Nằm yên chịu đựng như vậy thật là khó chịu. Nhưng Amy đã được dạy dỗ để hiểu biết nhiều hơn về Cha Thiên Thượng. Cô đã có thì giờ để cầu nguyện. Cô học được điều này: Chờ đợi không phải là thời gian vô ích. Đức Chúa Trời thường dùng bài học giá trị này để nhắc lại cho cô trong những giai đoạn khó khăn ở Ấn Độ. Cuộc đời theo Chúa của Amy hầu như luôn luôn giống như một cuộc leo núi để đến đỉnh vinh quang. Phải để sang bên những gánh nặng và phải có đôi bàn tay được tự do để leo. Sự so sánh này có xuất phát từ trong Kinh Thánh không? “Chúng ta cũng nên quăng hết gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương ta, lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc chạy đua đã bày ra cho ta. Nhìn xem Chúa Jêsus là cội rễ và cuối cùng của đức tin” (Hêbơrơ 12:1-2). Biết rõ ý của Đức Chúa Trời muốn cô biệt riêng cuộc đời để lo cho các em nhỏ Ấn Độ, nên Amy không bao giờ rời bỏ công tác đó. Đồng thanh với sứ đồ Phaolô, cô quyết định: “Tôi cứ làm một điều, bươn theo sự ở đàng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jesus Christ” (Philíp 3:14).
Vào một ngày mưa gió ở Penphát (Ái Nhĩ Lan) lúc Amy còn bé, cô cùng gia đình từ nhà thờ trở về nhà trên một con đường lớn. Tất cả mọi người đều khó chịu khi thấy một bà lão rách rưới đang cố gắng mang một túi nặng trên vai. Nhưng rồi thình lình Amy quay lại và chạy theo bà lão. Cô dìu bà và xách hộ chiếc túi tên một đoạn đường dài.
Tất cả những người ăn mặc sang trọng tròn xoe mắt nhìn Amy và tỏ thái độ không tốt khi họ đi ngang qua. Mặt Amy đỏ và nóng lên. Mưa phùn vẫn rơi xuống trên họ. Amy cảm thấy khốn khổ. Cô muốn giúp đỡ người khác mà lại bị chê cười. Nhưng một câu Kinh Thánh mà Amy đã được học thuộc lòng lúc ấy chợt lóe lên tâm trí cô. “Lửa sẽ chỉ ra công việc của mỗi người” (I Côrinhtô 3:13). Cô suy nghĩ: “…mình muốn lam công việc cho Chúa Jêsus để còn lại đời đời. Người ta hiểu hay không hiểu, không thành vấn đề”.
Ngay lúc đó, khi nhớ lại câu chuyện ấy, Amy được học bài học thứ ba: Chỉ có những việc còn lại đời đời là quan trọng. Amy vẫn tiếp tục giúp đỡ mọi người. Cô mang những nồi súp đến cho những người nghèo, cô ngồi bên giường những bệnh nhân. Cô biết Chúa muốn cô làm những việc này. Mặc dù mọi người chống đối, cô vẫn luôn giúp đỡ mọi người vì cô yêu Chúa Jêsus và muốn làm vui lòng Ngài. Mỗi ngày, cô tập hợp những người lớn lại và đọc Kinh Thánh cho họ nghe. Cô kể cho họ nghe về Cha Thiên Thượng là Đấng đã yêu thương họ bằng tình yêu đời đời. Khi họ nhìn thấy tình yêu thương của Amy, họ bắt đầu hiểu nhiều hơn về tình yêu thương của Đức Chúa Trời mà cô đã yêu mến và phục vụ. Amy có rất nhiều công việc phải làm. Mỗi đêm cô về nhà trong sự nóng nực và mệt mỏi. Đón mừng cô trong ngôi nhà nhỏ bé là em Bơrina hồn nhiên, vui vẻ. Mỗi ngày, Amy đều cố gắng để khám phá ra nơi mà những người trong đền thờ tìm ra những đứa trẻ. Một ngày kia, Amy hóa trang và ở lại trong một cái quán dành cho người qua đường. Mọi người ngồi quây quần trên nền nhà, xung quanh một ngọn đèn bằng đồng có ống khói. Họ trò chuyện với nhau. Một người chuyên kết hoa đeo cổ những tượng thần cũng ở đó. Amy lắng nghe rất cẩn thận, cố gắng để không làm lộ vẻ chú ý của mình. Cô đã lần ra được một manh mối. Nếu một người mẹ chết, người cha có khi sẽ bán đứa con gái nhỏ của mình cho đền thờ để ông ta không phải chăm sóc con mình nữa. Một gia đình nghèo khổ, túng thiếu quá, cần tiền để mua gạo đôi lúc cũng sẽ bán con mình cho đền thờ. Một người mẹ nhận được nhiều ân huệ của các thần thì phải tế một đứa con. Nếu một đứa trẻ bệnh hoạn, cha mẹ phải hứa tế nó cho thần nếu nó được đem đi chữa bệnh… Thông thường, em gái lớn nhất trong nhà phải bị dâng tế cho đền thờ. Amy kể cho những Cơ đốc nhân khác nghe về những việc ghê gớm này. Nhưng họ không đồng ý cho cô rời bỏ chức vụ giáo sĩ để đi giúp những em bé. Họ dường như không hiểu được tầm quan trọng trong việc dạy dỗ thiếu nhi về tình yêu của Đức Chúa Trời. Đối với Cha Thiên Thượng thì điều đó rất quan trọng vì Lời Chúa phán rằng: “Cha các ngươi trên trời cũng không muốn cho một đứa nàotr những đứa trẻ này phải hư mất” (Mathiơ 18:14).
Amy quyết định kiên nhẫn giúp đỡ các em nhỏ. Trẻ em tiếp tục đến sống và học tập với Amy. Rồi một ngày nọ, em gái bốn tuổi thứ nhì đến từ đền thờ. Sau đó, một người cha nói là sẽ bán con gái của ông ta cho đền thờ. Ông sẽ để nó lại cho Amy nếu cô trả cho ông một trăm ruby (khoảng bốn mươi đô la).
Nhưng trả tiền mua đứa trẻ có đúng ý Chúa không? Amy đắn đo, cô cầu nguyện nhiều về việc này và cảm nhận rằng Đức Chúa Trời đang hướng dẫn cô, vì vậy cô đã trả tiền. Amy âm thầm cầu nguyện xin Đức Chúa Trời ban cho cô một trăm ruby đó để chứng tỏ rằng Ngài chấp nhận và khích lệ việc ấy. Một món quà lớn như thế rất hiếm có đương lúc đó. Mười ngày sau, một giáo sĩ là người không hề biết lời cầu nguyện của Amy đã gởi đến một ngân phiếu đúng số tiền này. Các em nhỏ xúm lại cùng với Amy để ngợi ca, cảm tạ Đức Chúa Trời về sự nhậm lời cầu xin cách kỳ diệu, lạ lùng đó. Ít lâu sau, Amy cứu một em bé mười ba ngày tuổi khi bé bị đem đến đền thờ… Từ lâu, Amy đã có được mười sáu em nhỏ. Cô biết cần phải có một ngôi nhà lớn hơn cho các em và cô đã tìm được một nơi an toàn cách xa thành phố, ở miền Nam Ấn Độ, trong một ngôi làng tên là Đônavơ. Đó là một nơi yên tĩnh vắng vẻ giữa những ngọn núi và biển. Cách khoảng ba cây số về hướng Tây có một ngọn núi thấp được gọi là “Núi Thánh”. Nơi đây trông giống sa mạc khô khan, nhưng ở dưới chân núi có những dòng suối cung cấp nước mát mẻ và tràn đầy sự sống. Amy rất yêu thương mỗi em bé mà Đức Chúa Trời đã đem đến cho cô. Cô cảm thấy không thể nào rời xa các em được. Nhưng cô biết rằng cô còn phải làm việc nhiều hơn nữa để rao giảng cho những em bé trong đền thờ. Suốt thời gian ở Ấn Độ, cô đã ghi lại những gì mình đã khám phá được về những em bé trong đền thờ.
Quyển sách đầu tiên của cô mang tên “Những Điều Trông Thấy”. Những điều cô viết đã làm cho kẻ thù nổi lên chống đối. Dân chúng không đơn giản tin rằng những em bé trai và gái đáng thương kia bị bán cho đền thờ và bị đối xử như là tù nhân. Ngay cả một nhóm Cơ Đốc nhân cũng họp nhau lại để cố làm cho Amy rời khỏi chức vụ giáo sĩ của cô. Và rồi có một ngăn trở nữa xảy đến. Ông Wilson là cha nuôi của Amy kể từ khi cha ruột của cô qua đời viết thư cho Amy và xin cô về nước để gặp ông, vì ông sắp qua đời. Bạn bè bảo Amy thật là sai quấy nếu cô bỏ qua điều mong mỏi cuối cùng của cụ Wilson. Cô rất thương người cha nuôi đầy tình nghĩa này, nhưng cô không thể.
Vì Đức Chúa Trời đã ban và giao cho cô một công việc phải làm. Amy biết những gì Đức Chúa Trời muốn cô làm. Nếu cô ra đi, các em nhỏ của cô chắc chắn sẽ bị nguy hiểm.
Giữa lúc đó, Amy liên tiếp nhận được thư mời đi giảng ở những nơi ngoài đất nước a. Amy rất có tài giảng trước đám đông và thường có đến hai mươi ngàn thính giả trong một buổi giảng. Cô rất thích giảng. Nhưng cô đã học tập để nói “không” với mọi việc, chỉ trừ ra việc mà cô biết rằng Đức Chúa Trời muốn cô làm. Amy đã biết câu trả lời: Cô phải vâng lời Đức Chúa Trời. Chỉ có việc còn lại đời đời là quan trọng. Cô đã quyết định dứt khoát ngay sau đó: Không bao giờ rời khỏi Ấn Độ và những em nhỏ của cô. Cô đã ở lại đó năm mươi lăm năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét