CHƯƠNG 6: NÚI SINAI VÀ VỊ TRUYỀN ĐẠO
Ông Trần Thế Khôn là một người rất được tôn trọng trong giới của mình, và với lòng đầy chân thành, ông đã tự nhận mình có nhiệm vụ giúp đỡ người lữ hành mang gánh nặng rắc rối trên vai. Sự đảm bảo của ông ta là được chữa lành tâm trí phiền muộn, an toàn, tình bằng hữu và thỏa lòng. Giải pháp của ông là làng Đạo đức — cụ thể là nhà của một người tên là Nguyễn Trọng Luật với con trai của mình là Nguyễn Trọng Lễ, nơi đó người lữ hành sẽ tìm thấy câu trả lời cho mình cùng với hạnh phúc tràn đầy và gánh nặng sẽ được cất bỏ ngay.
Thật ra, đạo
làm lành (đạo lương) là con đường vẫn được vô số người ưa thích, cố gắng đến được
Thiên đàng và Bunyan muốn chuyển tải bài học này bằng các chi tiết trong phong
cảnh. Ngôi làng đạo đức tự hào về những người hàng xóm rất tử tế và đối xử với láng
giềng của họ một cách lịch sự và tôn trọng. Mọi người nói tốt về nhau và biết
cách xử lý gánh nặng của người lữ hành. Có rất nhiều chỗ trong làng cho thuê với
mức giá phải chăng. (Không nghi ngờ gì nữa, Bunyan đang ám chỉ đến Nhà thờ Anh trong
thời của ông ấy, nơi mà phần lớn các băng ghế trống và mà kỳ vọng hầu hết là rất
ít.)
Cơ Đốc Nhân nghe
theo lời khuyên của Trần Thế Khôn, nhưng khi anh ta đến một đồi cao thì anh sợ
nó đổ và đè bẹp anh. Đột nhiên gánh nặng anh ấy mang theo trở thành nặng hơn.
Người lữ khách với gánh nặng và tấm lòng chân thành biết rằng Luật thánh như luật
Môi-se từ trên núi sấm sét và đầy khói không thể giúp anh ta bằng bất kỳ cách
nào. Nó có thể đe dọa và cảnh báo, nhưng nó không bao giờ có thể lấy đi gánh nặng
tội lỗi gắn chặt vào lưng anh. Điều thú vị trong câu chuyện ngụ ngôn rằng những
người sống thoải mái trong ngôi làng của Đạo đức dường như không sợ nguy hiểm từ
ngọn núi. Thay vào đó, họ lặng lẽ đi về cuộc sống của họ đắm chìm trong sự tôn
trọng và lễ nghi của họ.
Đây là cách
mà một người đạo đức khác đã từng sống, ông ta nói, " Ấy chẳng phải tôi không có thể cậy
mình trong xác thịt đâu. Ví bằng kẻ khác tưởng rằng có thể cậy mình trong xác
thịt, thì tôi lại có thể bội phần nữa, 5 tôi chịu phép cắt bì ngày thứ tám, về
dòng Y-sơ-ra-ên, chi phái Bên-gia-min, người Hê-bơ-rơ, con của người Hê-bơ-rơ;
về luật pháp, thì thuộc phe Pha-ri-si; 6 về lòng sốt sắng, thì là kẻ bắt bớ hội
thánh; còn như về sự công bình của luật pháp, thì không chỗ trách được.” (Phi-líp
3: 5–6). Nếu có người nào từng sống trong làng đạo đức, thì đó chính là Sứ đồ
Phao-lô. Ông không chỉ sống trong làng, ông phải sống đúng bên cạnh ngọn núi, đối
với ông là Yên tĩnh và bình yên. Rồi một ngày mặt đất bắt đầu rung chuyển, và
những vụ phun trào bắt đầu xảy ra đe dọa chôn vùi ông.
Đối với Lữ khách, Bunyan, Phao lô hay bất cứ ai khác có cơ hội đã cố gắng tìm hòa bình dưới chân núi Sinai, không lâu nữa điều răn đến và mang theo nó mối đe dọa và giận dữ, thay vì hòa bình và cứu giúp khỏi gánh nặng và sức nặng của tội lỗi. Như Phao-lô nói, “Ngày xưa tôi không có luật pháp mà tôi sống; nhưng khi điều răn đến, thì tội lỗi lại sống” (Rô-ma 7: 9)
GIẢI NGHĨA CỦA
KEN PULS
Phần này trong
câu chuyện ngụ ngôn của Bunyan có một khởi đầu đen tối. Cơ Đốc Nhân giờ đã lạc
khỏi Con đường, bị lung lay bởi lời khuyên của Trần Thế Khôn. Khi anh đi đến
Làng Đạo đức, chẳng bao lâu thì anh bắt đầu nhận ra sự ngu ngốc của mình. Càng
đến gần Đồi Cao, anh ta càng lo sợ nó sẽ rơi xuống đầu và nghiền nát anh. Anh đã
từ bỏ Con đường thập tự giá và hiện đang theo đuổi một sự cứu rỗi công bình.
Anh sớm biết rằng những nỗ lực để làm vui lòng Chúa bằng một hình thức đạo đức
bề ngoài chẳng khác gì những mảnh vải vụn bẩn thỉu trước mặt Chúa. Các việc lành
của anh không bao giờ có thể đạt đến tiêu chuẩn hoàn hảo của Luật pháp Đức Chúa
Trời. Cơ Đốc Nhân thấy mình vô cùng sợ hãi, không biết phải làm gì hay phải rẽ
theo hướng nào. Tuy nhiên, Chúa nhân từ và sai Vị Truyền đạo đầy tớ của Ngài một
lần nữa để cảnh báo và an ủi Cơ đốc nhân. Truyền đạo trung tín với Vua của mình
đã đến tìm và cảnh báo người anh em mình. Đoạn văn khép lại trong Ánh sáng của
Tin Lành khi Cơ đốc nhân cho thấy thành quả của sự ăn năn và Truyền Đạo khích lệ
anh không nên thiếu đức tin, nhưng hãy tin cậy.
Chúng ta hãy
xem xét kỹ hơn ba người có liên quan đến chương này trong Hành Trình Lữ Khách:
lòng thương xót của Nhà vua, lòng trung tín của Truyền đạo và phản ứng của Cơ đốc
nhân.
I. Lòng nhân
từ của nhà vua
Trước hết,
hãy lưu ý, việc Vua nhân từ sai người tôi tớ của Ngài là Truyền Đạo đến để cảnh
cáo Cơ Đốc Nhân về lỗi của mình. Truyền Đạo trong câu chuyện ngụ ngôn là đại diện
về một mục sư, một người chăn cừu, một người canh gác — một người phục vụ Vương
quốc của Đức Chúa Trời bằng cách chăm sóc và hướng dẫn dân sự của Đức Chúa Trời.
Chính Đức Chúa Trời đã hứa: “Và Ta sẽ ban cho các ngươi những người chăn theo
lòng Ta, là kẻ sẽ nuôi các ngươi bằng sự hiểu biết và thông sáng” (Giê-rê-mi
3:15).
Đức Chúa Trời
cũng đã hứa rằng Ngài sẽ không bỏ mặc những người Ngài yêu thương. Truyền Đạo sẽ
đến và sửa sai. Chúng ta được học trong Châm ngôn 3: 11-12, " Hỡi con, chớ khinh điều sửa phạt của
Đức Giê-hô-va, Chớ hiềm lòng khi Ngài quở trách; Vì Đức Giê-hô-va yêu thương ai
thì trách phạt nấy. Như một người cha đối cùng con trai yêu dấu mình."
Lưu ý rằng tội
lỗi này không làm Đức Chúa Trời ngạc nhiên. Ngài đã chuẩn bị cho những vấp ngã
và lang thang của chúng ta. Chúa biết tấm lòng của con người. Ngài nói với
chúng ta trong Giê-rê-mi 17: 9, Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là
xấu xa: ai có thể biết được?" Ê-sai mô tả chúng ta giống như những con chiên
đã quay đầu và đi lạc, mỗi người trong chúng ta đều đi theo con đường riêng của
mình (Ê-sai 53: 6). Ngay cả khi con đường đã được sắp đặt rõ ràng trước mắt,
chúng ta cũng rất dễ bị phân tâm và lẩn tránh. Như tác giả bài thánh ca đã nói,
chúng ta "ưa xa Thánh phụ, thường hay cách ly Cha từ ái."
Điều quan trọng
là xuyên suốt câu chuyện ngụ ngôn, trong tất cả những lần Cơ đốc nhân trượt chơn,
vấp ngã hay lạc đường, Nhà vua luôn chuẩn bị sẵn sàng để tìm anh và đưa anh trở
lại. Khi Cơ Đốc Nhân đang ở trên cánh đồng đọc Sách của mình, bị kết tội và
không biết phải đi đường nào, Đức Chúa Trời đã gửi Truyền Đạo để cảnh báo anh hãy
chạy trốn cơn thịnh nộ hầu đến và chạy trốn đến Cổng hẹp, đến với Chúa Jêsus
Christ và Tin Mừng của Ngài. Khi Cơ Đốc Nhân rơi vào Vũng Lầy, sa lầy bởi tội lỗi
của mình và tự hỏi liệu Chúa có thể cứu một người độc ác như anh hay không, Ân Trợ
ở gần đó để đến và kéo anh ra. Và giờ đây, khi Cơ Đốc Nhân từ bỏ con đường đúng
đắn và lạc lối, Truyền Đạo lại được cử đến để cảnh báo và hướng dẫn Cơ Đốc Nhân.
II. Sự trung
tín của vị Truyền Đạo
Thứ hai, hãy
xem xét lòng trung tín của Truyền Đạo để phục vụ Vua như một người chăn trung
thành. Truyền Đạo không ngại đối mặt với Cơ Đốc Nhân về tội lỗi của mình và cảnh
báo anh ấy về hậu quả của nó. Truyền Đạo nói với anh ta một cách rõ ràng,
"bây giờ anh đã ra khỏi Con đường." Mặc dù công việc có thể khó khăn
và tốn kém, nhưng Ê-xê-chi-ên 33: 1-6 cho thấy tầm quan trọng nghiêm trọng của
việc đối mặt với tội lỗi của họ và công bố Phúc Âm:
“Có lời Đức
Giê-hô-va phán cùng ta rằng: 2 Hỡi con người, hãy nói cùng con cái dân ngươi mà
rằng: Khi ta sai gươm đến trên một đất nào, và dân đất ấy chọn một người trong
chúng nó để đặt làm kẻ canh giữ, 3 nếu người nầy thấy gươm đến trong đất, thì
thổi kèn để rao bảo dân sự. 4 Bấy giờ, hễ ai nghe tiếng kèn mà không chịu răn bảo,
và nếu gươm đến bắt lấy nó, thì máu của người ấy sẽ đổ lại trên đầu nó; 5 vì nó
có nghe tiếng kèn mà không chịu răn bảo, vậy máu nó sẽ đổ lại trên nó; nhưng nếu
nó chịu răn bảo thì cứu được mạng sống mình. 6 Nhưng nếu kẻ canh giữ thấy gươm
đến mà không thổi kèn, đến nỗi dân sự chẳng được răn bảo, và gươm đến mà cất sự
sống của người nầy hoặc người kia đi, thì người đó sẽ chết trong sự gian ác
mình; song ta sẽ đòi lại máu nó nơi người canh giữ.”
Người canh giữ
biết trọng trách của mình trước Chúa. Anh ta hiểu những thực tế của địa ngục, sự
phán xét và cơn thịnh nộ sắp tới của Đức Chúa Trời. Điều này nung nấu trong lòng
anh để cảnh báo và cầu xin mọi người hãy chạy trốn khỏi sự Hủy diệt và tìm kiếm
Cổng hẹp.
Nhưng hãy để
ý những gì người canh giữ nói. Anh ta không phải như Trần Thế Khôn, đưa ra ý kiến
và lời khuyên của riêng mình. Anh không lừa dối những người phạm tội bằng những
biện pháp lừa dối và sự bảo đảm sai lầm. Thay vào đó, người canh gác phải trung
thành rao giảng Lời Đức Chúa Trời. “Nầy, hỡi con người, ta đã lập ngươi đặng
làm kẻ canh giữ cho nhà Y-sơ-ra-ên; nên hãy nghe lời từ miệng ta, và thay ta
răn bảo trước cho chúng nó.” (Ê-xê-chi-ên 33: 7). Chúng ta xem trong 2
Ti-mô-thê 3:16 rằng Lời Đức Chúa Trời có ích cho sự dạy dỗ (dạy chúng ta sự thật
về Đức Chúa Trời, về bản thân và về thế giới mà chúng ta đang sống, vì vậy
chúng ta sẽ biết Con đường phải đi), bẻ trách (đối đầu chúng ta khi chúng ta phạm
tội, lầm lỗi và đi lạc đường), để sửa trị (chỉ cách trở lại Con đường), và để
được hướng dẫn trong sự công bình (dạy chúng ta cách ở lại trong Con đường). Ở
đây Cơ đốc nhân đang cần tất cả những gì Kinh thánh có thể cung cấp và Truyền Đạo
nói với anh ta, "Hãy đứng yên và lắng nghe để tôi chỉ cho anh những lời của
Đức Chúa Trời."
Nhưng cũng
lưu ý rằng, trong khi Truyền Đạo không coi thường tội lỗi của Cơ đốc nhân, ông
nói sự thật với Cơ đốc nhân trong tình yêu thương. Lời cảnh báo nghiêm khắc của
ông được hòa lẫn với một tấm lòng nhân ái, êm nhẹ và dịu dàng. Khi nghe tin tội
lỗi của mình bị vạch trần, Cơ Đốc Nhân gục xuống dưới chân Truyền Đạo như chết.
Khi kết quả của sự ăn năn được thể hiện, Truyền Đạo nhanh chóng mang lại sự
bình an của Tin Mừng. Truyền Đạo nói với anh, "Mọi tội lỗi và những kẻ phạm
thượng đều sẽ được tha thứ cho loài người; đừng vô tín, nhưng hãy tin." Truyền
Đạo nắm lấy tay Cơ Đốc Nhân và giúp anh đứng vững.
III. Phản ứng
của Cơ Đốc Nhân
Cuối cùng,
hãy chú ý đến phản ứng của Cơ Đốc Nhân đối với lời cảnh báo mà anh đã nhận được.
Anh khiêm tốn chấp nhận. Khi người canh gác thổi kèn, Cơ Đốc Nhân chú ý đến lời
kêu gọi và ăn năn tội lỗi của mình. Giê-rê-mi 6, nói về sự sụp đổ của Giu-đa,
trình bày một ví dụ về hậu quả nghiêm trọng của việc từ chối Lời Đức Chúa Trời
và không để ý đến những người canh giữ của Ngài. Ở đây chúng ta được cho biết:
" Ta đã lập vọng
canh kề các ngươi; hãy chăm chỉ nghe tiếng kèn. Nhưng chúng nó đáp rằng: Chúng
tôi không khứng nghe. 18 Vì vậy, hỡi các nước, hãy nghe; hỡi hội chúng, hãy biết
điều xảy đến giữa chúng nó! 19 Hỡi đất, hãy nghe: Nầy, ta sẽ khiến tai vạ đến
trên dân nầy, tức là quả báo của ý tưởng nó, vì nó chẳng chăm nghe lời ta, và
đã bỏ luật pháp ta. ”(Giê-rê-mi 6: 17-19). Chúng ta phải chấp nhận sự sửa dạy
mà Đức Chúa Trời mang đến cho chúng ta từ Lời của Ngài. Châm ngôn 15:10 cho biết
kết quả sẽ ra sao nếu Cơ đốc nhân không xem xét lời cảnh báo của Truyền Đạo:
" Sự hình phạt nặng
nề dành cho kẻ bỏ chánh lộ; Và kẻ ghét lời quở trách sẽ chết mất. " (Châm
ngôn 15:10).
Chúng ta phải
biết ơn những người canh gác mà Đức Chúa Trời đã ban để chăm sóc cho chúng ta. Phao-lô
khuyến khích chúng ta:
“Hỡi anh em,
xin anh em kính trọng kẻ có công khó trong vòng anh em, là kẻ tuân theo Chúa mà
chỉ dẫn và dạy bảo anh em. 13 Hãy lấy lòng rất yêu thương đối với họ vì cớ công
việc họ làm. Hãy ở cho hòa thuận với nhau.” (I Tes 5:12-13)
Các tôi tớ của
Đức Chúa Trời là một nhân tố quan trọng trong sự nên thánh của chúng ta. Chúng
ta phải cầu nguyện cho họ và yêu mến họ vì họ đã cảnh báo và an ủi chúng ta với
tư cách là những người phải khai trình lại với Đức Chúa Trời.
Trong phần
này, Nhà truyền giáo Phúc âm thực hiện tốt lời hứa của mình để chỉ cho Cơ đốc
nhân "những lời của Chúa." Ông tiếp tục trích dẫn hết câu Kinh thánh
này đến câu Kinh thánh khác, vạch trần lỗi lầm của Cơ đốc nhân, dạy anh ta nhận
ra và căm ghét tội lỗi của mình, và giải thích cho anh ta lý do tại sao việc bỏ
Đạo là điều ngu ngốc. Trần Thế Khôn đã nói về "giáo lý của thế gian
này", như 1 Giăng 4: 5 dạy: " Họ thuộc về thế gian, cho nên nói theo như thế gian, và người
thế gian nghe họ. " Đối với Cơ Đốc Nhân, việc lắng nghe và chú ý lời
khuyên của Trần Thế Khôn là một vấn đề nghiêm trọng, vì thế giới nghe và làm
theo ý mình. Nếu Cơ đốc nhân biết nhiều Lời Đức Chúa Trời hơn, anh sẽ được
trang bị tốt hơn để nhận ra sự khinh miệt của thế gian đối với đường lối của Đức
Chúa Trời. Trần Thế Khôn là người mong muốn sự thoải mái và vui vẻ, tránh sự bắt
bớ và đau khổ đến với những người tìm kiếm Thập tự giá (Ga-la-ti 6:12).
Nhà truyền đạo
nhắc nhở Cơ đốc nhân rằng chỉ có một con đường để sống, và đó là qua Đường thẳng
và Cổng hẹp:
“Hãy gắng sức
vào cửa hẹp, vì, ta nói cùng các ngươi, nhiều người sẽ tìm cách vào mà không
vào được.” (Lu-ca 13:24).
"
Hãy vào cửa hẹp, vì cửa rộng và
đường khoảng khoát dẫn đến sự hư mất, kẻ vào đó cũng nhiều. Song cửa hẹp và đường
chật dẫn đến sự sống, kẻ kiếm được thì ít. "Ma-thi-ơ 7: 13–14).
Khi Cơ Đốc
Nhân lần đầu tiên kêu lên: "Tôi phải làm gì để được cứu?" Nhà truyền đạo
đã chỉ đường. Nhưng Cơ Đốc Nhân đã không nhìn thấy Con đường sẽ đưa anh đến thập
tự giá. Vì vậy, Nhà truyền đạo hướng anh ta một lần nữa để chú ý đến những lời
cảnh báo của Kinh thánh.
Ông cảnh báo
Cơ đốc nhân phải tính toán giá phải trả, như Môi-se đã làm khi đồng hóa mình với
dân Chúa:
“Bởi đức
tin, Môi-se lúc đã khôn lớn, bỏ danh hiệu mình là con trai của công chúa
Pha-ra-ôn, đành cùng dân Đức Chúa Trời chịu hà hiếp hơn là tạm hưởng sự vui sướng
của tội lỗi: người coi sự sỉ nhục về Đấng Christ là quí hơn của châu báu xứ
Ê-díp-tô, vì người ngửa trông sự ban thưởng. ”(Hê-bơ-rơ 11: 24–26).
Và như Chúa
Giê-xu đã làm khi Ngài dạy các môn đồ của Ngài:
“Vì ai muốn
cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, nhưng ai vì cớ Ta và phúc âm mà mất mạng sống
mình thì sẽ được cứu” (Mác 8:35).
"Nếu ai
đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình, và cả mạng sống mình
nữa, thì không thể làm môn đồ Ta. Còn ai không vác thập tự giá mình mà đến theo
Ta thì không được làm Môn đồ của ta ”(Lu-ca 14: 26–27).
Cơ Đốc Nhân
đã quay lưng lại với thập tự giá. Anh đã dễ dàng từ bỏ Con đường đến với Ân điển
để tìm kiếm Luật pháp. Nhưng một lần nữa, lời cảnh báo rõ ràng đã vang lên
trong Kinh thánh:
“Hãy nói cho
tôi, anh em là kẻ ưa phục dưới luật pháp, há không nghe luật pháp sao? 22 Vì có
chép rằng Áp-ra-ham có hai con trai: một là con của người nữ tôi mọi, một là
con của người nữ tự chủ. 23 Nhưng con của người nữ tôi mọi sanh ra theo xác thịt,
con của người nữ tự chủ sanh ra theo lời hứa. 24 Cả điều đó có một nghĩa bóng:
hai người nữ đó tức là hai lời giao ước, một là lời giao ước tại núi Si-na-i,
sanh con ra để làm tôi mọi ấy là nàng A-ga. 25 Vả, A-ga, ấy là núi Si-na-i,
trong xứ A-ra-bi; khác nào như thành Giê-ru-sa-lem bây giờ, thành đó với con
cái mình đều làm tôi mọi. 26 Nhưng thành Giê-ru-sa-lem ở trên cao là tự do, và ấy
là mẹ chúng ta. 27 Vì có lời chép: Hỡi đàn bà son, ngươi là kẻ chẳng sanh nở
chi hết, hãy vui mừng; Ngươi là kẻ chẳng từng chịu đau đớn sanh đẻ, hãy nức
lòng mừng rỡ và bựt tiếng reo cười, Vì con cái của vợ bị để sẽ đông hơn con cái
của người nữ có chồng. 28 Hỡi anh em, về phần chúng ta, chúng ta cũng như
Y-sác, là con của lời hứa. 29 Nhưng, như bấy giờ, kẻ sanh ra theo xác thịt bắt
bớ kẻ sanh ra theo Thánh Linh, thì hiện nay cũng còn là thể ấy. 30 Song Kinh
Thánh, có nói gì? Hãy đuổi người nữ tôi mọi và con trai nó; vì con trai của người
nữ tôi mọi sẽ không được kế tự với con trai của người nữ tự chủ. 31 Ấy vậy, hỡi
anh em, chúng ta chẳng phải là con cái của người nữ tôi mọi, bèn là người nữ tự
chủ.” (Ga-la-ti 4: 21–31).
Ngay cả khi
Phao-lô giảng dạy cũng nhấn mạnh đến câu hỏi quan trọng: Kinh Thánh nói gì? Hết
câu này đến câu khác, cảnh báo đến cảnh báo, sự thật đến sự thật, tôi tớ của Đức
Chúa Trời yêu thương sửa chữa và khiển trách Người lữ khách lang thang này bằng
cách đưa anh ta lặp đi lặp lại với Lời Đức Chúa Trời.
Trong cuộc đối
thoại này, Bunyan tiết lộ lợi ích to lớn của việc biết và hiểu Kinh thánh. Nhà
truyền đạo tìm thấy một người anh em đang cần, quả thật, một người anh em sắp
đi lạc khỏi Con đường vào vòng nguy hiểm nghiêm trọng. Nhưng Nhà truyền đạo đã
chuẩn bị và sẵn sàng giúp đỡ. Người ấy có Lời Chúa được giấu kín trong lòng. Nhà
truyền đạo đã giữ Thanh Gươm được mài sắc bên mình và bây giờ rút nó ra vì lợi
ích của anh em mình. Chúng ta hãy trang bị đầy đủ để có thể giữ mình không đi lạc
vào những con đường sai lầm cũng như dạy dỗ và khuyên nhủ nhau trong lẽ thật và
tình yêu thương.
Khi biết được
mức độ nghiêm trọng của tội lỗi của mình, vì đã rời xa Con đường, Cơ Đốc Nhân
đã vô cùng đau khổ và xấu hổ. Với lòng thương xót, Đức Chúa Trời đã phái Nhà
truyền đạo đến cảnh báo cho anh em mình về những nguy hiểm đang chờ đợi những
ai cố gắng tìm kiếm ân huệ của Đức Chúa Trời bằng chính công lao của họ. Nhà
truyền đạo đã xác nhận tính trung thực của lời nói của mình với thẩm quyền của
Lời Đức Chúa Trời, trích dẫn từ Ga-la-ti 3:10:
Vì có bao
nhiêu công việc của luật pháp bị nguyền rủa; vì có lời chép rằng: "
Vì mọi kẻ cậy các việc luật
pháp, thì bị rủa sả, bởi có chép rằng: Đáng rủa thay là kẻ không bền đỗ trong mọi
sự đã chép ở sách luật, đặng làm theo những sự ấy!"
Trong câu
này Phao-lô trích dẫn từ Cựu ước:
“Đáng rủa sả
thay kẻ nào không giữ các lời của luật pháp nầy để làm theo!” (Phục truyền luật
lệ ký 27:26)
Chúa đòi hỏi
sự hoàn hảo. “Thế thì các ngươi hãy nên trọn vẹn, như Cha các ngươi ở trên trời
là trọn vẹn.” (Ma-thi-ơ 5:48). Vấp ngã và không tuân giữ bất kỳ phần nào của Luật
pháp Đức Chúa Trời là không tuân giữ toàn bộ Luật pháp. Luật pháp là thánh thiện,
công bình và tốt lành (Rô-ma 7:12). Nhưng chúng ta tội lỗi: "vì mọi người
đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời" (Rô-ma 3:23).
Và vì thế Phao-lô khẳng định “bởi các việc làm của luật pháp, không xác thịt
nào được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp là sự hiểu biết về tội lỗi”
(Rô-ma 3:20). Hy vọng duy nhất của chúng ta, nếu chúng ta được tha thứ và tuyên
bố là công bình trước mặt Đức Chúa Trời, là tin vào Chúa Giê-xu và nhận sự công
bình của Đức Chúa Trời nơi Ngài. Chỉ có đổ huyết và những công việc hoàn hảo của
Chúa Giê-su mới có thể tẩy rửa và cứu chúng ta. Những tác phẩm của chính chúng
ta, từng bị vấy bẩn bởi tội lỗi, chỉ có thể lên án chúng ta.
Cơ Đốc Nhân
thấy sự ngu ngốc khi từ bỏ Con đường và tự hỏi liệu giờ anh có thể quay trở lại
và tìm kiếm Cổng hẹp một lần nữa hay không. Khi những ân tứ của đức tin và sự
ăn năn được thổi bùng lên trong tấm lòng Cơ đốc nhân, Nhà truyền đạo luôn đồng
hành với anh để đưa ra những lời khuyên thực sự khôn ngoan. Lời khuyên của Nhà
truyền đạo bao gồm sự khiển trách, an ủi và cảnh báo.
Nhà truyền đạo
bắt đầu câu trả lời của mình cho lời cầu xin của Cơ Đốc Nhân: "Tội lỗi của
tôi có thể được tha thứ không?". Nhà truyền đạo không xem nhẹ mức độ
nghiêm trọng của tội lỗi của Cơ đốc nhân, nhưng tuyên bố nó "rất lớn."
Điều đó thật đáng sợ vì hai lý do. Đầu tiên, nó khiến Cơ Đốc Nhân từ bỏ Con đường.
Nó đã cản trở anh theo đuổi và tìm kiếm Chúa Giêsu, là Đường đi, Lẽ thật và Sự
sống. Nhưng Trần Thế Khôn không chỉ thuyết phục Cơ đốc nhân khỏi Con đường, mà
còn khiến anh ta đi vào những con đường cấm. Thay vì tìm kiếm Thập tự giá, Cơ Đốc
Nhân giờ đây đã bị ràng buộc vì một Lời Rủa sả.
Sau đó, lời
quở trách được tiếp theo bằng sự an ủi. “Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là
tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! lòng đau thương thống hối Chúa không
khinh dể đâu.” (Thi-thiên 51:17), và Nhà truyền đạo đảm bảo với Cơ đốc nhân rằng
anh ta sẽ không bị từ bỏ. Sự an ủi này sau đó được xác nhận bằng cả nụ hôn và mỉm
cười khi Nhà truyền đạo bảo Cơ Đốc Nhân hãy đi tìm Cổng hẹp lần nữa.
Sự ăn năn
thành thật của Cơ đốc nhân được thể hiện qua sự khiêm nhường và nhanh chóng của
anh. Anh siêng năng vâng theo Lời Chúa và buồn bực trước tội lỗi của mình. Anh không
đánh lừa tội lỗi, nhưng tránh xa những gì anh biết là sai. Anh không cố gắng
bào chữa hoặc biện minh cho tội lỗi của mình trước những người khác, hoặc cho
phép người khác mang lại cho anh ta niềm an ủi hoặc hy vọng giả tạo, như Trần
Thế Khôn đã làm. Cơ đốc nhân coi tội lỗi là "vùng đất cấm" và với tất
cả sự nhanh chóng, anh chạy trốn khỏi nó để trở lại Con đường (2 Cô-rinh-tô 7:
9-11).
Tình yêu và
sự quan tâm của Nhà truyền đạo dành cho anh em mình cũng được thể hiện qua một
lời cảnh báo. Trích dẫn từ Thi thiên 2:12, ông hướng dẫn Cơ đốc nhân học hỏi từ
lỗi lầm của mình và không quay sang một bên nữa:
“Hãy hôn
Con, e Người nổi giận, Và các ngươi hư mất trong đường chăng; Vì cơn thạnh nộ
Người hòng nổi lên. Phàm kẻ nào nương náu mình nơi Người có phước thay!”
Cụm từ cuối cùng của câu này là lời hứa tươi sáng hơn trái ngược với sự phán xét đáng sợ mà Cơ đốc nhân gần như đã sa vào: Đáng rủa sả cho những ai đặt niềm tin vào sự công bình và công việc của họ.
SUY GẪM
Điền những từ in nghiêng bên dưới vào chỗ trống:
1. Chủ của ngôi nhà mà Trần Thế Khôn giới
thiệu Cơ Đốc Nhân đến là ai?
2. Run lên vì sợ hãi
3. Chúng ta không thể được xưng công bình
bởi các việc làm………..
4. Con trai của Nguyễn Trọng Luật là ……………….,
không thể tự giải cứu chính mình và Cơ Đốc Nhân.
5. Cơ Đốc Nhân thấy gì ở đỉnh đồi?
6. Người công bình sẽ sống bởi…..…………..
7. Cơ Đốc Nhân vô cùng sợ hãi vì lỗi của
anh ấy khi xây bỏ con đường chánh đáng, nhưng
8. Vị Truyền đạo nói với anh: “Chớ cứng
lòng, song………………”
9. Vẻ mặt của Vị Truyền đạo khi nhìn thấy
Cơ Đốc Nhân đi sai đường là…………………
10.Tất cả chúng ta phải cố gắng để vào cửa……………
11.Cơ Đốc Nhân cảm thấy thế nào khi anh ấy
nhìn thấy Vị Truyền đạo?
12.Cơ Đốc Nhân than trách mình thật là……………….khi
nghe theo lời của Trần Thế Khôn.
Nguyễn Trọng Luật; Xấu hổ vô cùng; Chớp nhoáng, sấm sét; Đức tin; Nghiêm khắc và đáng sợ; Lập cập; Hẹp; Ngu dại; Nguyễn Trọng Lễ; Đạo đức; Hãy tin
ĐÀO SÂU
Cơ Đốc Nhân thầm nghĩ "Nếu thật như lời Trần Thế Khôn đã nói
..." Dựa theo
Công vụ 17: 10–12, làm sao Cơ đốc
nhân có thể biết điều gì là sự thật?
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
Vị Truyền đạo trả lời ra sao về lời dạy của Trần Thế Khôn?
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
Tại sao ông ta được gọi là Trần Thế
Khôn? (Xin xem 1 Giăng 4: 1–6.).............................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
Đọc Công vụ 15: 1–35 và Ga-la-ti 6:
12–16. Làm thế nào một số người hoạt động như những nhà thông thái thế gian
trong thời của Phao-lô.............................................................
...................................................................................................................................
Những lời dạy về "con đường tốt đẹp hơn" của các nhà thông thái thế gian ngày nay thật khó hiểu và gây lầm tưởng cho những người mong muốn được trút bỏ gánh nặng tội lỗi và đạt được sự sống đời đời như thế nào?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét