CHƯƠNG 37: MIỀN LẠC TÂM BULA
Từ Beulah có nghĩa là kết hôn. Trong thời đại mà ly hôn và
hôn nhân không chung thủy tràn lan này, ngay cả trong nhà thờ Cơ đốc, chúng ta có
thể lấy làm lạ với mức độ hạnh phước thiêng liêng cao quý nhất của vinh quang
thiên đàng lại được ví sánh như hôn nhân. Một sự ràng buộc lâu dài chắc hẳn là điều
ngớ ngẩn của một thế hệ đã học được tình yêu từ Hollywood và các tờ báo lá cải.
Đức Chúa Trời nhìn mọi thứ theo cách khác:
“Người ta sẽ chẳng gọi ngươi là Kẻ bị bỏ nữa, chẳng gọi đất
ngươi là Đất hoang vu (Bula) nữa; nhưng sẽ gọi ngươi là Kẻ mà ta ưa thích; và đất
ngươi sẽ được xưng là Kẻ có chồng; vì Đức Giê-hô-va sẽ ưa thích ngươi, và đất
ngươi sẽ có chồng. 5 Như người trai tráng cưới người nữ đồng trinh, thì các con
trai ngươi cũng sẽ cưới ngươi; chàng rể mới vui mừng vì vợ mới mình, Đức Chúa
Trời ngươi cũng vui mừng vì ngươi. 6 Hỡi Giê-ru-sa-lem, ta đã đặt các vọng canh
trên thành ngươi; cả ngày và đêm chúng nó chẳng hề im lặng. Hỡi các ngươi là kẻ
nhắc nhở Đức Giê-hô-va, chớ có nghỉ ngơi chút nào.” Ê-sai 62:4-6
Bunyan sử dụng biểu tượng của hôn nhân gần như là sự báo trước
về những điều trên trời sẽ đến. Ngược lại với Vùng đất Mê Khí của một trạng
thái uể oải và mệt mỏi thuộc linh ngay cả trong tầm nhìn của Thiên Thành, thì
Vùng đất Beulah là nơi sở hữu của một người đang ở trong trạng thái vui mừng và
hết sức trông đợi được gặp mặt Chàng Rể, chính là Chúa Giê-su Christ. “Hỡi kẻ rất
yêu dấu, Chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ
thấy Ngài như vốn có thật vậy.” (1 Giăng 3: 2).
Vùng Đất này là lời nhắc nhở về tình yêu của Đấng Christ và
mối quan hệ giao ước của Ngài với hội thánh của Ngài (Giê-rê-mi 31:31; Ma-thi-ơ
26:28; 1 Cô-rinh-tô 11:25; Hê-bơ-rơ 9:15, 12:24). Hội thánh là cô dâu của Đấng
Christ (Khải Huyền 21: 9). Mối quan hệ của hội thánh với Đấng Christ được mô tả
trong Kinh thánh như một cuộc hôn nhân (Ê-phê-sô 5: 22–33, Khải Huyền 19: 7–9;
21: 9).
Nhà Thanh GIáo Christopher Love khi bị chặt đầu trên Đồi
Tháp, bị buộc tội phản quốc dưới sự cai trị của Oliver Cromwell. Vào ngày bị
hành quyết, ông đã viết những lời yêu thương này cho người vợ thân yêu của
mình:
Nguyện Ý Cha được nên. Ôi xin nàng hãy nói như thế khi tôi đến
Đồi Tháp. Ý muốn của Chúa được thực hiện…. Tôi sẽ không còn gọi nàng là vợ nữa,
nhưng tôi không sầu não nhiều, vì tôi sẽ gặp Chàng Rể, là Chúa Jêsus, người mà
tôi sẽ kết hôn đời đời.
Sự an ủi và sự hiện diện của Đấng Christ, bảo chứng cho tình
yêu của Ngài và niềm hân hoan mong đợi của Đấng mãi mãi hát xướng vì chúng ta,
vui mừng vì chúng ta, dẫn dắt chúng ta trong đồng cỏ xanh tươi và cánh tay của Ngài
khiến tôi vui vẻ đời đời — đây là Vùng đất Beulah vĩnh cửu.
Người làm vườn cũng chỉ cho họ lối đi và bệ đá của Đức Vua
(nơi họ có thể tìm thấy chỗ nghỉ ngơi). Có thể Bác làm vườn, người Gác Cổng ở Mỹ
Cung, Người chăn chiên ở Dãy núi Lạc Sơn đều đại diện cho một khía cạnh cần thiết
khác của chức vụ chăn bầy. Mục sư là niềm an ủi và giúp đỡ tuyệt vời cho bầy chiên
đang khi gần đến thiên đàng. Ông khích lệ họ bằng những lời hứa của Đức Chúa Trời,
nuôi dưỡng tâm linh họ bằng Lời Đức Chúa Trời và cầu nguyện để họ đi đến cuối
Con đường. Nhưng cũng giống như những người chăn có “Đấng làm đầu các kẻ chăn
chiên” (1 Phi-e-rơ 5: 4), tức là “Chúa Giê-su”, “Đấng chăn chiên lớn” (Hê-bơ-rơ
13:20), Kinh thánh nhắc chúng ta rằng chỉ có một Người làm vườn Lớn.
Chính Đức Chúa Trời là người đã trồng khu vườn đầu tiên: “Đoạn,
Giê-hô-va Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Ê-đen, ở về hướng Đông, và đặt
người mà Ngài vừa dựng nên ở đó. 9 Giê-hô-va Đức Chúa Trời khiến đất mọc lên
các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn ngon;” Sáng 2:8-9
Khi dân Y-sơ-ra-ên chuẩn bị vào Đất Hứa, Môi-se mô tả nó như
một khu vườn được Đức Chúa Trời chăm sóc. “Vậy, phải gìn giữ hết thảy điều răn
mà ta truyền cho các ngươi ngày nay, để các ngươi được mạnh mẽ, vào nhận lấy xứ
mà mình sẽ chiếm được, 9 hầu cho các ngươi sống lâu ngày trên đất mà Đức
Giê-hô-va đã thề ban cho tổ phụ các ngươi và cho dòng dõi của họ, tức là xứ đượm
sữa và mật. 10 Vì xứ ngươi sẽ vào nhận lấy chẳng phải như xứ Ê-díp-tô, là nơi
mình đã ra khỏi; tại nơi ấy ngươi gieo mạ và phải nhờ lấy chân mình mà tưới,
như một vườn rau cỏ; 11 nhưng xứ các ngươi sẽ đi vào nhận lấy đó, là một xứ có
núi và trũng, nhờ mưa trời mà được thấm tưới. 12 Ấy là một xứ Giê-hô-va Đức
Chúa Trời ngươi săn sóc, mắt Ngài hằng đoái xem nó từ đầu năm đến cuối.” Phục
11:8-12
Ê-sai trông đợi ngày Chúa sẽ phục hồi Si-ôn như một khu vườn
trĩu quả: “Vì Đức Giê-hô-va đã yên ủi Si-ôn; Ngài đã yên ủi mọi nơi đổ nát của
nó. Ngài đã khiến đồng vắng nên như vườn Ê-đen, nơi sa mạc nên như vườn Đức
Giê-hô-va; giữa vườn ấy sẽ có sự vui vẻ, mừng rỡ, tạ ơn, và tiếng ca hát.” Ê-sai
51:3
Trong Bài ca của Solomon (nơi mà Bunyan phác họa phần lớn
hình ảnh về vùng đất Beulah), Vua là Người làm vườn. Ngài là Đấng Yêu Dấu, người
chăn nuôi “bầy của Ngài trong các khu vườn.” “Lương nhân tôi đi xuống vườn người,
Nơi vuông đất hương hoa, Đặng chăn trong vườn, Và bẻ hoa huệ. 3 Tôi thuộc về
lương nhân tôi, Và lương nhân tôi thuộc về tôi; Người chăn bầy mình giữa đám
hoa huệ.” Nhã ca 6:2-3
Sau khi Chúa Giê-su bị đóng đinh, Ngài được đặt trong một
ngôi mộ gần đó trong một khu vườn. “Vả, tại nơi Ngài bị đóng đinh, có một cái
vườn, trong vườn đó có một cái huyệt mới, chưa chôn ai. 42 Ấy là nơi hai người
chôn Đức Chúa Jêsus, vì bấy giờ là ngày sắm sửa của dân Giu-đa, và mộ ấy ở gần.”
Giăng 19:41-42
Và khi Ngài sống lại, Mary Ma-đơ-len, người đầu tiên nhìn thấy
Ngài, đã nghĩ rằng Ngài là người làm vườn. “Song Ma-ri đứng bên ngoài, gần mộ,
mà khóc. Người vừa khóc, vừa cúi xuống dòm trong mộ, 12 thấy hai vị thiên sứ mặc
áo trắng, một vị ngồi đằng đầu, một vị ngồi đằng chân, chỗ xác Đức Chúa Jêsus
đã nằm. 13 Hai thiên sứ hỏi: Hỡi đàn bà kia, sao ngươi khóc? Người thưa rằng:
Vì người ta đã dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu. 14 Vừa nói xong người
xây lại thấy Đức Chúa Jêsus tại đó; nhưng chẳng biết ấy là Đức Chúa Jêsus. 15 Đức
Chúa Jêsus hỏi người rằng: Hỡi đàn bà kia, sao ngươi khóc? Ngươi tìm ai? Người
ngỡ rằng đó là kẻ làm vườn bèn nói rằng: Hỡi chúa, ví thật ngươi là kẻ đã đem
Ngài đi, xin nói cho ta biết ngươi để Ngài đâu, thì ta sẽ đến mà lấy. 16 Đức
Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi Ma-ri, Ma-ri bèn xây lại, lấy tiếng Hê-bơ-rơ mà thưa
rằng: Ra-bu-ni (nghĩa là thầy)!” Giăng 20:11-16
Ở đất Beulah, Người làm vườn đứng ở Con đường gần cuối hành
trình để nhìn xem những lữ khách được về nhà an toàn hay không. Chúa xem sự qua
đời của các thánh của Ngài là quý giá. “Sự chết của các người thánh. Là quí báu
trước mặt Đức Giê-hô-va.” Thi thiên 116:15
Khi họ gần kết thúc cuộc hành trình trong cuộc đời này, Ngài
vẫn cung cấp tất cả những gì mà họ cần.
Khi Cơ đốc nhân và Hy vọng cận kề cái chết, họ tiếp tục tình
yêu của mình (khao khát được lên thiên đàng). Bunyan sử dụng nhiều hình ảnh hơn
từ Nhã ca của Solomon để bày tỏ mong muốn rời bỏ cuộc sống này và ở bên Đấng
Christ. “Và ổ gà mình như rượu ngon. Chảy vào dễ dàng cho lương nhân tôi, Và
tuôn nơi môi kẻ nào ngủ. 10 Tôi thuộc về lương nhân tôi, Sự ước ao người hướng
về tôi.” Nhã ca 7:9-10
Khi Cơ Đốc Nhân và Hy Vọng chuẩn bị tiến vào Thiên Thành và
hoàn tất cuộc hành trình của mình, họ gặp hai đấng sáng láng. Các đấng hỏi thăm
họ và bảo họ rằng chỉ còn hai khó khăn nữa: vượt sông (trải qua cái chết) và vượt
qua Cổng thành (vào thiên đàng).
Thành phố được làm bằng “vàng ròng” (Khải Huyền 21:18) và những
lữ khách không thể nhìn bằng mắt trần “nhưng qua một công cụ để nhìn” (chúng ta
chỉ mới thấy vinh quang của thiên đàng trong Kinh thánh qua con mắt đức tin).
Trong cuộc sống này, chúng ta chỉ có thể nhìn xem sự vinh hiển của Đức Chúa Trời
cách lờ mờ, như qua một cái gương. Nhưng một ngày nào đó, chúng ta sẽ được vinh
hiển và sẽ thấy Ngài “mặt đối mặt”. “Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn
xem vinh hiển Chúa như trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ
vinh hiển qua vinh hiển, như bởi Chúa, là Thánh Linh.” II Cor 3:18
Trong cuộc sống này, chúng ta khao khát được lên thiên đàng
- chúng ta khao khát được ở với Đấng Christ. Chúng ta khao khát được giải phóng
khỏi sự rủa sả và sự định tội. Chúng ta mong muốn được giống như Đấng Christ. Một
ngày nào đó "chúng ta sẽ giống như Ngài, vì chúng ta sẽ thấy Ngài như vốn
có thật vậy." Hỡi kẻ rất yêu dấu, chính lúc bây giờ chúng ta là con cái Đức
Chúa Trời, còn về sự chúng ta sẽ ra thể nào, thì điều đó chưa được bày tỏ.
Chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy
Ngài như vốn có thật vậy. 3 Ai có sự trông cậy đó trong lòng, thì tự mình làm
nên thanh sạch, cũng như Ngài là thanh sạch. I Giăng 3:2-3
SUY GẪM
Trong ô bên dưới, viết những từ mô tả vùng đất Bula
Khi Cơ Đốc Nhân và Hy Vọng tới gần hơn, họ trông thấy Thiên Thành như thế nào?
Điều gì đã xảy ra với Cơ Đốc Nhân và Hy Vọng khi họ nhìn thấy
tất cả những vẻ đẹp này?
Cho biết tại sao Cơ Đốc Nhân và Hy Vọng không thể nhìn thẳng
vào Thiên Thành?
Mô tả hai đấng mà những lữ khách đã gặp.
Hai người này đã nói gì với Cơ Đốc Nhân và Hy Vọng?
ĐÀO SÂU
Cơ Đốc Nhân và Hy Vọng trải nghiệm Miền đất Beulah vào cuối
cuộc hành trình đến Thiên Thành. Bạn có nghĩ rằng một Cơ đốc nhân có thể trải
nghiệm Beulah trong suốt cuộc hành trình chứ không chỉ khi cuối hành trình của
mình? Giải thich câu trả lơi của bạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét